Một số nhận định từ các nhà phân tích mía đường trong tháng 9/2025 cho thấy nguồn đường nhập khẩu vào Việt Nam về nhiều, giao dịch mua bán khá hơn kỳ trước. Trong khi đó, trên thị trường đường thế giới thể hiện giá đường tiếp tục đà giảm do nguồn cung đường toàn cầu tiếp tục tăng.
Sức ép rõ rệt ở ngành đường
Không những vậy, theo các nhà phân tích, nhu cầu tiêu thụ nội địa suy yếu trong bối cảnh đường nhập lậu vẫn ở mức cao khiến tồn kho đang gây áp lực lớn cho các doanh nghiệp (DN) ngành đường trong nước. Với đặc thù thời hạn xoay vòng ngắn, các nhà máy đường trong nước buộc phải tăng tốc giải phóng tồn kho, gây sức ép trực tiếp lên mặt bằng giá nội địa.
Các DN ngành mía đường nội địa đang gặp thế khó khi giá bán giảm, đầu ra chậm, tồn kho tăng.
Và theo ước tính từ giới phân tích, giá bán bình quân năm 2025 giảm còn 17,5 triệu đồng/tấn đường (giảm 5% so với cùng kỳ năm 2024) trước khi hồi phục về 17,9 triệu đồng/tấn vào năm 2027. Như vậy là vẫn dưới vùng đỉnh 2022–2024.
Nhận định mới nhất trong tháng 9/2025 từ Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán Mirae Asset cho rằng ngành đường bước vào thời kỳ thách thức. Đáng chú ý là áp lực lên giá bán, theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSA), sản lượng tiêu thụ vẫn chưa bắt kịp tốc độ sản xuất, khiến giá đường trắng lùi về mức 17.400–18.200 đồng/kg và đường tinh luyện còn 19.500 đồng/kg (giảm 2.000 đồng so với cùng kỳ năm trước). Trong khi đó, chi phí mía đầu vào (chiếm 85% giá vốn) ở mức 1,2–1,3 triệu đồng/tấn càng làm gia tăng áp lực chi phí và giải phóng hàng tồn.
Tình trạng khó khăn về đầu ra dẫn đến tồn kho vẫn là nỗi ám ảnh của các DN ngành đường nội địa. Giới quan sát cho rằng tốc độ đẩy hàng tồn kho trong quý 3/2025 sẽ là yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng phục hồi lợi nhuận và chất lượng bảng cân đối của toàn ngành này. Còn nếu tính riêng nửa đầu năm nay, các DN đường như CTCP Mía Đường Lam Sơn, CTCP Mía Đường Sơn La, CTCP Đường Kon Tum, CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa và CTCP Đường Quảng Ngãi đã ghi nhận tổng giá trị tồn kho đến 8.300 tỷ đồng (tăng 15% so với cùng kỳ năm trước).
Nhìn vào tình hình tồn kho hiện tại sẽ thấy đã vượt xa quỹ đạo khi cầu yếu và giá bán suy giảm sau giai đoạn 2022–2024. Điều này khiến cho biên lợi nhuận của các DN đường nội địa chịu sức ép rõ rệt.
Trong thế khó của ngành mía đường nội địa cũng cần thấy nguyên nhân sâu xa từ việc yếu thế cạnh tranh. Theo giới chuyên gia, đường sản xuất nội địa thường có giá thành cao hơn 39% so với đường thế giới do được nhà nước bảo hộ nhờ các chính sách thuế phòng vệ thương mại, chống bán phá giá và chống trợ cấp.
Đó là chưa kể vẫn còn những áp lực từ đường nhập khẩu (dù đã đẩy mạnh các chính sách bảo hộ thị trường nội địa) và đường nhập lậu. Đáng lưu tâm hiện nay là nhập khẩu đường lỏng từ ngô tăng mạnh đang gây dư cung, đe dọa ngành mía đường trong nước.
Đường lỏng sirô ngô - HFCS, chất tạo ngọt chính trong nước giải khát, chế biến thực phẩm tiếp tục nhập khẩu về Việt Nam tăng vọt trong thời gian gần đây. Riêng 7 tháng đầu của năm 2025 ghi nhận lượng đường lỏng sirô ngô nhập khẩu vào Việt Nam là 126.024 tấn, còn hồi năm 2024 con số này đã lên đến 241.504 tấn.
Trước mối lo của ngành mía đường nội địa, gần đây Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, chủ trì, phối hợp với cơ quan liên quan khẩn trương kiểm tra, đánh giá tình hình sản xuất, tiêu thụ, tồn kho đường trong nước, tác động của đường nhập lậu, đề xuất các giải pháp kiểm soát hiệu quả tình trạng đường nhập lậu, ổn định thị trường, hỗ trợ DN ngành mía đường duy trì sản xuất bền vững.
Nhìn vào thế khó của ngành mía đường nội địa cũng để nhắc nhớ đây là bài học chung cho nông sản Việt đòi hỏi cần có những giải pháp hữu hiệu, tháo gỡ các rào cản để gia tăng đầu ra và không đánh mất lợi thế trên “sân nhà”.
Để “sân nhà” thực sự là “phao cứu sinh”
Đơn cử như với ngành hàng cá tra, trong bối cảnh thương mại toàn cầu nhiều biến động, chiến lược “quay về sân nhà” đang được nhiều DN trong ngành hàng này cân nhắc. Một số DN lớn đã thử nghiệm đa dạng hóa sản phẩm chế biến sâu như chả cá, cá viên, bún cá đóng gói, hướng đến người tiêu dùng trẻ, học sinh, công nhân và bếp ăn tập thể.
Thế nhưng, để thị trường “sân nhà” thực sự trở thành “phao cứu sinh” với ngành hàng cá tra, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ các chương trình như đưa cá tra vào chương trình dinh dưỡng học đường, gói hỗ trợ kích cầu tiêu dùng thủy sản, hoặc các chiến dịch truyền thông quốc gia.
Bài học từ các quốc gia trong khu vực cho thấy nội địa không nên chỉ là “phương án dự phòng” mà hoàn toàn có thể là trụ cột ổn định, nếu được phát triển đúng hướng. Tại Thái Lan – quốc gia có ngành nuôi cá rô phi phát triển, khoảng 60% sản lượng được tiêu thụ nội địa, nhờ việc chính phủ đưa cá vào khẩu phần ăn tại trường học, bệnh viện, quân đội và các cơ sở công.
Trong khi đó, Việt Nam – với quy mô dân số gần 100 triệu người, mức sống tăng đều và xu hướng ăn sạch, ăn tiện lợi lên ngôi – hoàn toàn có tiềm năng trở thành thị trường tiêu thụ chiến lược cho cá tra. Nhưng để làm được điều đó, các DN trong ngành cá tra cần vượt qua nhiều rào cản: từ tâm lý tiêu dùng, thói quen nấu nướng, đến hệ thống phân phối, bao bì, truyền thông và nhận diện sản phẩm.
Ngoài ra, nhìn vào giá thành cao ở ngành mía đường nội địa để thấy đây cũng là điểm yếu cố hữu khiến cho nông sản Việt yếu thế cạnh tranh. Trong đó, một trong những nguyên nhân nằm ở chi phí logistics. Như ở ngành hàng rau quả, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, đã than phiền chi phí logistics hiện chiếm tới 30% giá thành sản phẩm.
Trên thực tế, logistics cho chuỗi giá trị nông nghiệp Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều vấn đề, đó là chi phí cao, hạ tầng phát triển không kịp so với nhu cầu thực tế, năng lực cung ứng dịch vụ có hạn…
Như lưu ý của ông Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Nafoods Group, chi phí logistics trong ngành nông nghiệp “rất khủng khiếp”, chiếm khoảng 20% giá thành, ảnh hưởng đáng kể tới sức cạnh tranh của các DN.
Và một trong những giải pháp chung cho ngành hàng nông sản Việt được Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đưa ra trong thời gian tới là cần chú trọng kéo giảm chi phí logistics. Không chỉ vậy, cần phải giảm thủ tục hành chính, giảm phí, lệ phí…để tạo điều kiện thuận lợi và chia sẻ gánh nặng với DN, người nông dân.
Thế Vinh