Những rào cản mang tính hệ thống
Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố báo cáo chuyên đề “Bứt tốc phát triển nhân tài công nghệ cao của Việt Nam”.
Báo cáo cho hay mặc dù Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn về đổi mới sáng tạo (ĐMST) và phát triển nhân lực, nhưng cũng đang phải xử lý những rào cản mang tính hệ thống đang cản trở đà ĐMST, phát triển nhân lực trình độ cao.
Theo đó, Việt Nam chỉ có 1/3 số giảng viên đại học có bằng tiến sĩ - thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 100% ở các chương trình hàng đầu của châu Á.
Do gánh nặng giảng dạy và nguồn quỹ hỗ trợ nghiên cứu hạn chế, giảng viên cũng không có nhiều động lực cập nhật chương trình đào tạo hoặc duy trì các phòng thí nghiệm hiện đại. Nhiều giảng viên cũng thiếu kinh nghiệm thực tiễn công nghiệp và chưa được tiếp cận hoạt động nghiên cứu tiên phong để nâng cao chuyên môn.
Nhiều rào cản trong việc phát triển nhân lực công nghệ cao tại Việt Nam
Thiếu hụt giảng viên có trình độ tiến sĩ lại tạo ra vòng lặp tiêu cực là đầu ra tiến sĩ thấp, dẫn đến thiếu các nhà khoa học, kỹ sư và nhân sự ĐMST tiên phong. Chưa kể, sinh viên giỏi trong nước có nguyện vọng theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu thường ra nước ngoài, còn những người ở lại ít được kèm cặp hướng dẫn và bị hạn chế về nguồn lực cho nghiên cứu nâng cao.
WB chỉ ra, nguồn nhân lực nghiên cứu được đào tạo trong nước gần như chững lại trong 15 năm qua. Những người có bằng cấp cao chính là lực lượng chủ trì các dự án R&D, và trở thành thế hệ giảng viên, lãnh đạo công nghệ kế tiếp. Chính vì thế, tình trạng thiếu hụt tiến sĩ trong nước là điểm yếu quan trọng.
“Sự yếu kém trong trình độ của giảng viên, giáo dục sau đại học và nghiên cứu đang bóp nghẹn nguồn cung nhân tài trình độ cao cần có cho một nền kinh tế dựa vào ĐMST. Mở rộng và nâng cao chất lượng các chương trình sau đại học trong nước là yêu cầu cấp thiết để phá bỏ vòng lặp tiêu cực này”, WB nêu.
Gánh nặng tài chính khiến nhiều người ngại… học
Cũng theo WB, tổng chi cho R&D thấp, chỉ đạt 0,5% GDP, khiến cho Việt Nam chưa có được cụm KH-CN lớn tầm cỡ toàn cầu, số lượng các công bố khoa học, bằng sáng chế và kết quả ĐMST công nghệ cao còn hạn chế.
Với doanh nghiệp tư nhân, chi tiêu cho R&D chỉ đạt 0,2% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 1,7% ở Trung Quốc và 3,6% ở Hàn Quốc. Thực tế, khu vực tư nhân ở Việt Nam chưa nổi lên trở thành động lực lớn cho ĐMST, vì hầu hết doanh nghiệp vẫn dựa vào công nghệ nhập khẩu hoặc chỉ chỉnh lý nhỏ, thay vì kết quả R&D gốc.
Đáng chú ý, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục chưa theo kịp tốc độ tuyển sinh, buộc các cơ sở giáo dục đại học phải dựa nhiều vào nguồn học phí của sinh viên.
“Việc các cơ sở giáo dục đại học công lập hàng đầu được giao tự chủ nhiều hơn cũng dẫn đến giảm phân bổ của Nhà nước theo đầu sinh viên, khiến gánh nặng học phí và tài chính cho sinh viên tăng lên. Đó cũng là nguyên nhân ngăn cản nhiều người theo đuổi các chương trình thạc sĩ hoặc tiến sĩ do chi phí cao (và mất thu nhập do đi học), làm hạn chế nguồn cung nhân lực có bằng cấp cao”, WB nêu.
Chi phí cao khiến nhiều sinh viên ngại học lên bậc cao hơn
Ngoài ra, WB cũng cho hay tình trạng thiếu vốn dành cho R&D và giáo dục đại học còn trở nên trầm trọng hơn do thủ tục trong giải ngân vốn của Nhà nước. Cán bộ nghiên cứu gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn của Nhà nước dành cho nghiên cứu một cách hiệu quả.
Hơn nữa, mức độ liên kết giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp còn yếu, thiếu gắn kết với nhau, dẫn đến chương trình đào tạo lạc hậu và lệch với nhu cầu về kỹ năng. Chỉ có một số ít doanh nghiệp trong nước hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học để nghiên cứu, trong khi các giáo sư không có nhiều động lực (hoặc nguồn lực) để theo đuổi các dự án nghiên cứu ứng dụng phù hợp với doanh nghiệp.
Nhìn chung, các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào hoạt động R&D nội bộ hoặc công nghệ nhập khẩu, thay vì tận dụng tri thức từ giới học thuật trong nước. Điều này đồng nghĩa Việt Nam đang bỏ lỡ những tác động cộng hưởng và lan tỏa tiềm năng từ hợp tác chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục đại học - doanh nghiệp.
Chạy khi bị “trói chân”
Cũng theo báo cáo của WB, Việt Nam thiếu những cơ sở vật chất tiên tiến (phòng thí nghiệm đào tạo hiện đại, phòng sạch, dây chuyền thí điểm công nghệ sinh học…) bởi đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn.
Điều này khiến nhiều sáng kiến ĐMST thường chỉ dừng lại ở khâu phòng thí nghiệm. Tình hình này cản trở nỗ lực thương mại hóa kết quả nghiên cứu, làm giảm sức hấp dẫn Việt Nam đối với các dự án công nghệ cao.
Ví dụ, với ngành bán dẫn, do không có dây chuyền chế tác vi mạch bán dẫn trong nước hoặc nhà máy R&D dùng chung, các nhóm thiết kế vi mạch trong nước phải gửi thiết kế nguyên mẫu ra nước ngoài, thường là các xưởng sản xuất ở Đài Loan hoặc Hàn Quốc, để chế tạo. Điều này vừa tốn kém, vừa làm chậm đáng kể giai đoạn phát triển.
Việt Nam thiếu cơ sở vật chất tiên tiến để phục vụ nghiên cứu
Hay như doanh nghiệp khởi nghiệp về công nghệ sinh học muốn sản xuất vật liệu cấp độ lâm sàng để thử nghiệm sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ sở vật chất trong nước có đủ năng lực. Những hạ tầng vườn ươm chính, như nhà máy sinh học (phục vụ sinh học tổng hợp), các nhà máy thí điểm lên men, các trung tâm nghiên cứu lâm sàng tiên tiến... hầu như chưa có.
WB đánh giá nhà nghiên cứu và doanh nhân khởi nghiệp ở Việt Nam đang trong tình trạng "chạy khi bị trói chân". Họ có thể phát triển ý tưởng, nhưng không có cơ sở hạ tầng trong nước để chế tạo nguyên mẫu, biến ý tưởng thành công nghệ được thương mại hóa.
Lam Thanh