Một góc Thủ Dầu Một - TP.HCM. Nguồn: daibieunhandan.
Cuốn tạp bút Tiếng nói Nam Kỳ cũ địa danh, nhơn danh, thổ ngữ của học giả Vương Hồng Sển là tư liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu về miền Nam xưa và cho bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn về địa danh, thổ ngữ, con người miền Nam.
Lý do nhiều địa danh cũ ở đất Nam Kỳ xưa dịch chưa đúng
Trong cuốn sách này, căn cứ vào các tài liệu của học giả tiền bối Trương Vĩnh Ký, tập san Sử địa, Đồng Nai văn tập… và những điều mắt thấy tai nghe, tác giả kê cứu, sắp xếp lại cho hệ thống về địa danh, nhơn danh, thổ ngữ và các tỉnh, thành phố ở miền Nam từ thời Pháp thuộc.
Tác giả sách cho biết, học giả Trương Vĩnh Ký có cuốn Petit cours de géographie la Basse Cchinchine, in năm 1875.Và nhờ có cuốn sách này mà ông biết được các ông Nguyễn Tạo, Thượng Tân Thị dịch sai nhiều địa danh miền Nam (Nguyễn Tạo dịch sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, còn Thượng Tân Thị dịch Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí của Duy Minh Thị ra chữ Quốc ngữ).
Ví dụ Gò Vắp, Thượng Tân Thị dịch sai thành Gò Bôi. Còn Nguyễn Tạo cho rằng Núi Bà Đen là Vân Sơn. Theo tác giả sách, trước nay trong Nam chỉ nghe Gò Vắp: đất gò có cây vắp mọc. Cây này, thợ mộc rất kiêng vì trùng âm với “vấp, lầm vấp”, sợ nói tên rủi dăm xóc xước vào da thịt.
Còn Núi Bà Đen, tác giả cho rằng nếu dịch giả Nguyễn Tạo biết đọc sử, biết bà được vua Gia Long phong Linh Sơn Thánh Mẫu thì ắt không cố cãi là Vân sơn. Núi Bà Đen (viết Bà Đinh) cũng gọi là núi Điện Bàn, Chiêng Bà Đen (pic de Badinh) là Linh sơn chứ không phải là Vân sơn.
Theo học giả Vương Hồng Sển lý do các bản dịch Nguyễn Tạo và Thượng Tân Thị sót lỗi nhiều là bởi các ông đồ này vì tự kiêu nên không chịu học hỏi người địa phương, hai là vì cậy tài cứ theo chữ có sẵn trong sách mà dịch lại
Mặt khác, cũng theo tác giả, cách phiên dịch và lối đặt tên cho các địa danh trong Nam vào đầu thế kỷ 20 cũng khiến tên địa danh cũ ở đất Nam Kỳ xưa cũng bị lệch đi.
Tác giả sách cho biết, năm 1901, chính phủ Pháp ở Nam Kỳ thiết lập địa bạ (sổ sách ruộng vườn các làng xã) vừa bằng chữ Quốc ngữ, chữ Nôm và chữ Hán. Đây là lần đầu tên các địa danh được viết theo thứ chữ mới là chữ Quốc ngữ, trước đó các địa danh được viết trong Miên Tự, Nôm tự, Hán tự và dùng với nhau trong dân gian và được công nhận giữa các sắc dân bản xứ Việt - Miên - Tàu.
Sách Tiếng nói Nam Kỳ cũ. Ảnh: ML.
Địa danh Miên và Việt, đối chiếu Hán Việt tự điển
Trong cuốn sách, tác giả đưa ra các ví dụ về việc dịch tên các địa danh Miên và Việt, đối chiếu Hán Việt tự điển.
Ví dụ trong Việt Nam tự điển Lê Văn Đức, trang 26 quyển 1 ghi “Thủ Dầu Một là do tiếng Khmer Thul Đoán Bôth (gò có đỉnh cao nhất)… Theo tác giả dịch như vậy là chưa đúng. Nội tiếng Đoán không phải là Khmer. Phải viết là đơm (cây) mới đúng tiếng Khmer.
Thủ Dầu Một, theo tác giả tên này do người Việt đặt, người Miên không có tên gọi như vậy. Khi đặt xong, người Miên dựa sát dịch ra cho họ dùng, nhưng họ không dịch nổi chữ Thủ nên bỏ mất, còn dịch chữ Dầu Một mà thôi. Miên gọi Chhoeuteal muey doem: Thủ Dầu Một. Chhoeuteal: gỗ dầu, cây dầu. Muey (đọc muôi) là một; doem là cái cây; dầu một cây: Thủ Dầu Một. Có người gọi là Thủ Dầu Dách, vì dách, giọng Quảng Đông là nhất.
Nói về chữ Thủ theo tiếng cũ trong Nam, học giả Vương Hồng Sển cho biết ngay cả Tự điển Hội Khai trí tiến đức Hà Nội cũng không có.
Ví dụ: Phần thủ: theo Đại Nam Quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của là chỗ làng lập ra mà giữ dưới sông.
Trại thủ: là trại của làng lập ra để canh giữ trên bộ (ĐNQATV.HTC).
Trại sách, trại thủ: nhà canh giữ, dỏ làng, chỗ đóng binh (ĐNQATV.HTC).
Dỏ: xích hậu, trại thủ, trại sách trong mỗi làng. Dỏ điếm, dỏ canh, còn cạnh dỏ là canh tại dỏ (chữ dỏ không thấy ghi trong Từ điển khai trí).
Xích hậu: trong Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, là phần thủ, dỏ điếm; trái lại, hiểu theo Hán Việt tự điển, xích hậu là người đi trinh thám tình hình quân địch (espion).
Tác giả cho biết, người xưa có câu hát: “Bắp non mà nướng lửa lò, đố ai ve được con đò Thủ Thiêm”. Hay câu: “Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn, anh phải lòng nàng tại Thủ Chiến Sai”. Thủ Thiêm ở ngang Sài Gòn. Thủ Đức: tên phần thủ gần Sài Gòn; Thủ Đoàn: tên phần thủ thuộc Tân An cũ, ở Bến Lức đi xuống; Thủ Chiến Sai: tên phần thủ ở tỉnh An Giang, nay gọi sai là Thủ Kiến Sai.
Thủ ngữ: chức quan giữ cửa biển; đồn thủ tại cửa biển (Huỳnh Tịnh Của). Tên phần thủ xưa, ngày nay là cầu tàu ngang Bến Nhà Rồng có treo hiệu cho tàu ra vào sông. Theo tác giả, chữ Thủ được lấy đặt tên Thủ Dầu Một, cũng như chữ dỏ lấy ra đặt tên cho đất Dỏ Sa, thuộc Phước Long (Biên Hòa xưa).
Minh Châu