500.000 tỉ đồng - quy mô của chương trình tín dụng đầu tư hạ tầng điện, giao thông và công nghệ chiến lược trong giai đoạn tới. Ảnh: LÊ VŨ
Tiếp tục bứt phá
500.000 tỉ đồng là quy mô của chương trình tín dụng đầu tư hạ tầng điện, giao thông và công nghệ chiến lược trong giai đoạn tới, với sự tham gia của 23 ngân hàng thương mại, theo thông tin Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chia sẻ mới đây. Lãi suất cho vay ưu đãi của gói tín dụng này sẽ thấp hơn tối thiểu từ 1-1,5%/năm so với lãi suất cho vay bình quân cùng kỳ hạn của chính ngân hàng cho vay
Chương trình chia ra làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu (2025-2026), các ngân hàng thương mại sẽ phân bổ khoảng 100.000 tỉ đồng để cho vay ưu đãi đối với các dự án trọng điểm quốc gia thuộc ba lĩnh vực nêu trên. Giai đoạn tiếp theo (2027-2030), căn cứ theo tiến độ và nhu cầu vốn thực tế của các dự án, số vốn còn lại sẽ được phân bổ tiếp.
Với mục tiêu tham vọng tăng trưởng kinh tế hai con số từ năm 2026, Chính phủ và NHNN đang tập trung nguồn lực mạnh mẽ ở cả chính sách tiền tệ lẫn tài khóa để thúc đẩy. Chương trình nói trên là một sự kết hợp chặt chẽ, khi các doanh nghiệp có thể vừa tận dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước phục vụ đầu tư công, vừa có khả năng tiếp cận dòng vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng với lãi suất ưu đãi để triển khai các dự án cơ sở hạ tầng.
Trong khi nhà điều hành xem nới lỏng chính sách tiền tệ, thể hiện qua mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao với các gói kích thích tín dụng “khủng”, là yếu tố cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thì về phía các doanh nghiệp, khi nhìn vào triển vọng tăng trưởng kinh tế cao lại càng có động lực vay thêm vốn ngân hàng để mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Cần biết rằng các chính sách thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng có thể mang đến hiệu ứng “bội số tín dụng” vượt trội, khi một dòng vốn đầu tư công có thể kéo hàng loạt dòng vốn đầu tư khác, từ vốn tín dụng ngân hàng, vốn tự có của các doanh nghiệp tham gia các dự án, vốn nhà thầu, vốn chuỗi cung ứng...
Trong khi đó, các ngân hàng cũng đang đứng trước cơ hội phát triển tín dụng bứt phá hơn nữa từ năm sau, với khả năng có thể vượt mốc 20% dự báo sẽ đạt được trong năm nay, khi các ngân hàng có thể không còn bị hạn chế bởi room tín dụng. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo NHNN xây dựng lộ trình thí điểm bỏ room tín dụng từ năm sau.
Nhìn lại lịch sử, NHNN bắt đầu áp chính sách room tín dụng cho các ngân hàng từ năm 2011, với mục tiêu hạn chế mức cho vay tối đa của các ngân hàng, từ đó kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh kinh tế biến động mạnh trong những năm trước đó, với tăng trưởng tín dụng thường xuyên ở mức rất cao 30-40%/năm.
Nhờ chính sách này mà các ngân hàng đã không còn chạy đua tăng trưởng bằng mọi giá, vĩ mô cũng ổn định hơn, dòng vốn tín dụng được điều tiết vào các lĩnh vực sản xuất thực, hạn chế nguồn vốn đầu cơ vào các kênh tài sản nóng sốt, bảo vệ an toàn hệ thống ngân hàng. Đặc biệt, nhà điều hành cũng đã sử dụng room tín dụng như một công cụ kỷ luật hệ thống, với ngân hàng lành mạnh sẽ được cấp room cao hơn ngân hàng yếu kém.
Giới phân tích cũng cho rằng cơ chế này hiện nay không còn phù hợp với hệ thống ngân hàng hiện đại, khi các ngân hàng giờ đây đã có nguồn vốn dồi dào hơn, trong khi nhà điều hành có thể kiểm soát qua các tỷ lệ an toàn như CAR (an toàn vốn) mà một số ngân hàng đã tiệm cận chuẩn mực quốc tế Basel 2, Basel 3.
Động lực tăng trưởng
Trong khi nhà điều hành xem nới lỏng chính sách tiền tệ, thể hiện qua mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao với các gói kích thích tín dụng “khủng”, là yếu tố cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thì về phía các doanh nghiệp, khi nhìn vào triển vọng tăng trưởng kinh tế cao lại càng có động lực vay thêm vốn ngân hàng để mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh, giúp thị trường lao động cải thiện. Cầu vốn thực tăng lên ở khu vực sản xuất, tiêu dùng sẽ giúp tín dụng tăng trưởng bền vững hơn.
Động lực thứ hai đến từ thị trường bất động sản đã “phá băng”, thoát đáy và phục hồi tích cực từ năm ngoái đến nay. Nhiều doanh nghiệp đã được tháo gỡ khó khăn về pháp lý dự án, lại được hưởng lợi từ các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mới, thanh khoản cải thiện, nhu cầu vay mua nhà, đầu tư nhà đất đang tiếp tục phục hồi. Các khoản dư nợ bất động sản luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, nên chỉ cần kênh đầu tư này ấm lên, tín dụng toàn hệ thống sẽ bật mạnh.
Cùng với mồi dẫn từ dòng vốn đầu tư công, làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2026 không chỉ làm tăng nhu cầu tín dụng ở nhóm doanh nghiệp FDI, mà còn có thể kéo theo nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp nội địa, nhất là nhóm doanh nghiệp có thể tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI và có hoạt động thương mại quốc tế.
Với mảng tín dụng bán lẻ, các hoạt động chuyển đổi số, chấm điểm tín dụng số qua nguồn dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo được kỳ vọng giúp giảm chi phí thẩm định, rút ngắn thời gian cho vay, cũng như mang đến khả năng tiếp cận các nhóm khách hàng đa dạng hơn. Nhiều dự báo cho thấy mảng mua trước trả sau (BNPL), vay tiêu dùng số và tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của các ngân hàng sẽ còn bùng nổ hơn nữa trong giai đoạn tới.
Thời gian gần đây, nhiều ngân hàng đã triển khai quy trình cho vay trực tuyến lên App, từ các bước eKYC, chấm điểm, phê duyệt trực tuyến cho đến ký số và giải ngân, đặc biệt ở các sản phẩm tín chấp cá nhân và nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ. Ngoài ra, một số ngân hàng đã triển khai thêm các dịch vụ “vay nhúng” (Embedded lending), theo đó các khoản vay nhỏ lẻ này sẽ xuất hiện đúng lúc khách cần - khi mua xe máy, các thiết bị điện tử, thanh toán hóa đơn lớn, tín dụng theo dòng tiền bán hàng trên các nền tảng trực tuyến.
Cuối cùng, trong bối cảnh nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã tăng chậm lại trong năm nay, việc xử lý nợ xấu thuận lợi hơn trong bối cảnh thị trường bất động sản sôi động trở lại, các ngân hàng sẽ giải phóng được nguồn lực mắc kẹt vào các tài sản không sinh lời, từ đó mạnh dạn cho vay hơn với khẩu vị rủi ro cũng chấp nhận ở mức cao hơn, để cạnh tranh thu hút khách hàng tín dụng.
Triệu Minh