Bài viết dưới đây là quan điểm của Thạc sĩ Hồ Tấn Nguyên Minh, Tổ trưởng Ngữ văn, Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Đắk Lắk (Phú Yên cũ).
Đề văn ngắn gọn năm 1976 và khoảng cách với đề thi học sinh giỏi hiện nay
Gần đây, tôi được một người bạn gửi ảnh chụp một trang báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 13/6/1976, đăng bài văn đạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn lớp 10 toàn miền Bắc năm học 1975-1976 của Trương Hồng Quang (Trường cấp 3 Đô Lương, Nghệ Tĩnh), hiện là nhà thơ, dịch giả sống tại Đức.
Đọc trang báo cũ, tôi đặc biệt chú ý đến đề thi Văn rất ngắn gọn, giản dị: Bình luận một tác phẩm văn học (tùy ý lựa chọn). Thật bất ngờ, từ cách đây rất lâu, trong điều kiện giáo dục còn khó khăn, thiếu thốn, chúng ta đã có những đề văn phát huy tối đa cá tính sáng tạo, không gò ép người viết vào bất cứ một khuôn khổ nào.
Đối chiếu với đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn hiện nay (ở đây chỉ bàn về câu nghị luận văn học, câu 12 điểm trong đề thi), phải thừa nhận rằng dường như chúng ta đã đi một bước lùi so với mấy mươi năm về trước.
Hình ảnh tác giả chụp lại bài văn đạt giải nhất trong cuộc thi học sinh giỏi Văn lớp 10 toàn miền Bắc năm học 1975-1976 đăng trên báo Quân đội Nhân dân ngày 13/6/1976.
Hiện nay, câu nghị luận văn học trong đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn các cấp thường đặt ra những nhận định hàm chứa vấn đề lý luận văn học nặng tính hàn lâm, cao siêu, hóc búa, như các đề dưới đây:
Đề 1: “Thơ là cái lặng lẽ của con hổ. Ngay con hổ cũng có lúc giật mình vì một tiếng lá rụng. Thơ đi giữa can trường và hoảng hốt, đi giữa cái liều và nỗi sợ…” (Thanh Thảo)
Bằng những trải nghiệm của mình về thơ, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Đề 2: “Văn học là thế giới hoang tưởng, ảo tưởng, hão huyền trong cuộc đời thực tẻ nhạt, dung tục, của cảm xúc nhục cảm, vớ vẩn, suy đồi, là vàng trong cát, sự bất lực thê thảm. Chúng ta làm được gì khi xây những lâu đài cát trên bờ biển xanh?”. (Nguyễn Huy Thiệp)
Bằng hiểu biết và trải nghiệm văn học của mình, anh/chị hãy bày tỏ quan điểm về nhận định trên.
Đọc qua, chúng ta dễ có cảm giác đề văn kiểu này rất sang, rất uyên bác. Phải như thế mới đúng tầm học sinh giỏi. Phải như thế thì học sinh giỏi mới “có đất dụng võ”. Thế nhưng, kỳ thực, cách ra đề kiểu như thế này lại bộc lộ khá nhiều bất cập:
Thứ nhất, đề thi thường đặt ra những vấn đề lý thuyết văn học nặng tính hàn lâm, cao siêu, vượt quá độ tuổi và trình độ của học sinh, kể cả học sinh giỏi. Những vấn đề vốn dành cho nghiên cứu, lý luận, phê bình lại được yêu cầu ở bậc phổ thông, khiến học sinh bị “già trước tuổi”, bị ép chín về tư duy. Thậm chí, nhiều đề còn khó hơn cả đề thi thạc sĩ văn học; đến giáo viên bồi dưỡng, nếu không đọc trước tài liệu tham khảo, cũng khó có thể nắm bắt thấu đáo ngay từ lần tiếp xúc đầu.
Với những đề thi như vậy, để làm được, các em bắt buộc phải “ngốn” theo dạng thuộc lòng càng nhiều càng tốt: từ lý thuyết Tây cho đến lý luận Đông, từ Thi pháp học đến Kí hiệu học, từ Phê bình sinh thái cho đến Phê bình nữ quyền… Các thầy cô giáo dạy bồi dưỡng muốn học sinh đạt giải cũng phải cố nhồi nhét cho các em càng nhiều càng tốt.
Sau mỗi kỳ thi học sinh giỏi, đọc các bài văn đạt giải cao, chúng ta thường trầm trồ trước sự già dặn, uyên thâm của bài viết và không khỏi tự hỏi vì sao học sinh phổ thông lại có thể “siêu” đến vậy. Thế nhưng, kỳ thực, nhiều bài văn trong số ấy đâu phải sản phẩm sáng tạo của học sinh, mà chủ yếu là kết quả của việc lượm lặt, xào nấu, học thuộc từ sách vở và bài giảng.
Thứ hai, đề văn thường dựa trên những nhận định của các nhà lý luận, phê bình uy tín - vốn là những kết luận đã được thừa nhận như chân lý. Khi yêu cầu học sinh bàn luận về các “chân lý” ấy, các em hầu như chỉ có thể khẳng định và diễn giải lại, chứ khó có khả năng phản biện hay bày tỏ quan điểm khác.
Với những đề văn dạng này, học sinh thường sẽ đi theo một lối mòn, một khuôn định sẵn: giải thích, khẳng định ý kiến đúng, làm rõ vì sao nó đúng, chọn tác phẩm làm bằng chứng… Do đó, cách ra đề như vậy dù có vẻ rất sang, uyên bác nhưng lại buộc học sinh phải nói lại, nói theo. Học sinh khó có cơ hội thể hiện cá tính sáng tạo, bày tỏ tiếng nói bản thể của mình.
Trả lại cho học sinh tiếng nói cá nhân và năng lực sáng tạo
Từ những bất cập đã phân tích, tôi cho rằng chúng ta cần có những thay đổi mạnh mẽ trong việc ra đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn. Phải làm sao để mỗi bài thi là tiếng nói riêng, là sản phẩm được tạo ra từ năng lực thực sự của các em, chứ không phải là kết quả của sự lượm lặt, nhồi nhét.
Tôi xin đề xuất hai hướng ra đề dành cho câu nghị luận văn học như sau:
Hướng thứ nhất, yêu cầu học sinh bày tỏ cảm nhận riêng về một tác phẩm văn học, tốt nhất là cho các em tùy ý lựa chọn tác phẩm như đề văn năm 1976; hoặc có thể chỉ định tác phẩm và yêu cầu các em thể hiện cảm nhận. Nếu chỉ định, tác phẩm ấy phải lạ, tức chưa có bài phân tích, cảm nhận phổ biến trên Google hay các phương tiện truyền thông, nhằm tránh tình trạng trúng tủ, tạo sự công bằng cho thí sinh. Đồng thời, tác phẩm phải hay, giàu giá trị nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn.
Dưới đây là một vài đề ở dạng này:
Đề 1: Trong cuộc thi thơ Haiku Việt - Nhật năm 2009, ban tổ chức đã trao giải nhất cho bài thơ của tác giả Nguyễn Thánh Ngã. Bài thơ như sau:
“Xó chợ
chiếc lon trống
hạt mưa mồ côi”
Anh/chị hãy viết bài văn trình bày cảm nhận của mình về bài thơ trên.
Đề 2: Viết bài văn phân tích truyện ngắn Nhiệm vụ tự nguyện của nhà văn Ngô Phan Lưu (dẫn văn bản truyện vào đề).
Với dạng đề văn này, năng lực của học sinh đến đâu sẽ được thể hiện ra đến đó; cá tính sáng tạo của các em cũng được tự do bộc lộ mà không phải chịu sự chi phối bởi bất cứ điều gì.
Hướng thứ hai, có thể sử dụng nhận định của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình, nhưng nhận định ấy không phải là đối tượng yêu cầu các em bàn luận mà chỉ gợi ra một vấn đề nào đó và cho phép học sinh tự do viết bằng trải nghiệm của mình. Chẳng hạn:
Đề 1: Giáo sư Huỳnh Như Phương cho rằng: “Đọc văn là một cách để con người mở rộng chiều kích tồn tại của mình”. Hãy viết về một tác phẩm đã giúp anh/chị “mở rộng chiều kích tồn tại của mình”.
Đề 2: Trong bài thơ Truyện cổ nước mình, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ viết:
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình
Hãy viết về một truyện cổ đã giúp anh/chị “nhận mặt cha ông của mình”.
Với hai đề văn trên, đối tượng để học sinh viết không phải là nhận định của giáo sư Huỳnh Như Phương hay ý thơ của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, mà những nhận định, ý thơ này chỉ có tác dụng gợi ra một vấn đề. Học sinh được phép tự do lựa chọn tác phẩm gắn với trải nghiệm của chính các em để viết; và do đó, các em được quyền nói tiếng nói của riêng mình mà không phải chịu sự ràng buộc của bất kỳ ai.
Trên đây là đề xuất của tôi dành cho đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn bậc phổ thông, mong được mạn đàm cùng bạn đọc gần xa.
Hồ Tấn Nguyên Minh