Lời tòa soạn
Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng và áp lực phát triển kinh tế ngày càng gia tăng, vấn đề môi trường Thủ đô và vùng phụ cận đang nổi lên như một thách thức mang tính sống còn. Từ chất lượng không khí, nguồn nước, rác thải, cho tới sự mất cân bằng sinh thái, tất cả đều cho thấy một yêu cầu cấp thiết: Hà Nội không thể chỉ xử lý đơn lẻ từng vấn đề, mà cần một tầm nhìn liên vùng, thống nhất và dài hạn. Việc tái thiết môi trường Vùng Thủ đô (*), vì thế, không chỉ là câu chuyện của quy hoạch, mà còn là thước đo cho năng lực quản trị, cho sự đồng thuận của cộng đồng và cho khả năng hiện thực hóa khát vọng phát triển bền vững.
Vùng Thủ đô hiện nay bao gồm Hà Nội và các tỉnh, thành lân cận: Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ, Ninh Bình, Hưng Yên, TP. Hải Phòng. Đây là không gian phát triển có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ về kinh tế, hạ tầng, xã hội và môi trường. Bởi vậy, công cuộc bảo vệ và tái thiết môi trường của Hà Nội không thể tách rời trách nhiệm và sự phối hợp với các địa phương trong vùng.
Tạp chí điện tử Kinh tế Môi trường khởi đăng tuyến bài “Tái thiết môi trường liên vùng Thủ đô: Từ quy hoạch chiến lược đến giải pháp hành động”. Đây là tuyến bài được chắp bút bởi các chuyên gia đầu ngành về kinh tế - môi trường, các nhà báo có nhiều năm kinh nghiệm, sẽ đi sâu phân tích các chính sách, mô hình và giải pháp cụ thể trong quản lý môi trường đô thị và liên vùng. Năm bài viết trong tuyến bài này sẽ khắc họa rõ những vấn đề then chốt, từ quy hoạch tổng thể, phối hợp giữa các địa phương, cho tới các sáng kiến thực tiễn. Qua đó, Ban biên tập mong muốn góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện, đồng thời khơi gợi thảo luận xã hội về những bước đi cần thiết để Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của cả nước - cùng Vùng Thủ đô phát triển xanh, hài hòa và bền vững cho các thế hệ mai sau.
Với tinh thần đó, Ban biên tập Tạp chí Kinh tế Môi trường xin giới thiệu tới Quý độc giả bài viết đầu tiên với tiêu đề: “Từ vùng không khí bị bóp nghẹt đến những dòng nước suy kiệt”.
Theo các chuyên gia, điều khiến ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội trở nên phức tạp là hiện tượng ô nhiễm xuyên biên giới hành chính. Để giải bài toán ô nhiễm liên vùng cần “những cái bắt tay thật chặt”, sự phối hợp của Hà Nội với các địa phương trong Vùng Thủ đô.
Ô nhiễm không khí, đất và nguồn nước không còn là câu chuyện của riêng Hà Nội hay một tỉnh nào, mà là bài toán liên vùng. Không khí ô nhiễm từ Bắc Ninh, Hưng Yên, Phú Thọ tràn vào nội đô; nước thải từ Hà Nội đổ xuống các dòng sông Nhuệ, sông Đáy, kéo theo ô nhiễm cả hạ lưu; đất ven sông bạc màu, nhiễm kim loại nặng, tác động ngược trở lại bàn ăn của người dân Thủ đô. Những dấu hiệu rạn nứt của hệ sinh thái đang hiện rõ, lan truyền từ ngoại vi vào lõi đô thị. Từ vùng nông thôn đến thành thị, nếu không có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Hà Nội và các địa phương vệ tinh, Vùng Thủ đô có nguy cơ rơi vào vòng xoáy ô nhiễm khó cứu vãn.
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2023 (công bố tháng 1/2025) nhận định: “Ô nhiễm môi trường không khí ở khu vực nông thôn do hoạt động đốt ngoài trời vẫn tiếp diễn. Ở một số địa phương khu vực phía Bắc, sau mùa vụ, rơm, rạ thường được bỏ lại trên đồng ruộng và đốt vào buổi tối. Tình trạng đốt phế phẩm sau mùa vụ tuy không mới song có xu hướng mở rộng nhiều địa phương do nhu cầu sử dụng phế phẩm để đun nấu, chăn nuôi hộ gia đình giảm. Một phần phụ phẩm trong trồng trọt đã được dùng sản xuất viên nén, cồn công nghiệp, phát điện sinh khối, làm đệm lót sinh học chăn nuôi, phân hữu cơ… Phần còn lại chủ yếu bị đốt ngoài đồng ruộng gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, ô nhiễm môi trường. Kết quả quan trắc từ các trạm quan trắc tự động, liên tục tại một số địa phương khu vực phía Bắc thời gian đầu tháng 6 thường ghi nhận giá trị các thông số ô nhiễm, đặc biệt là bụi PM2.5, tăng vào khoảng 18h và đạt giá trị cực đại trong khoảng từ 21h đến 01h sáng hôm sau”.
Chỉ số ô nhiễm không khí tại Hà Nội theo số liệu của IQAir ngày 7/1/2025.
Theo thống kê của IQAir, năm 2024, nồng độ bụi mịn PM2.5 trung bình tại Hà Nội đạt 45 µg/m³, cao gấp 9 lần khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Trong năm, thành phố trải qua hơn 140 ngày có chất lượng không khí vượt chuẩn quốc gia, trong đó hàng chục ngày AQI chạm mức “rất kém”. Đầu tháng 10/2024, một đợt quan trắc ghi nhận AQI Hà Nội vượt 200, đồng nghĩa với tình trạng nguy hại cho sức khỏe toàn dân. Cục Môi trường (Bộ NN&MT) cho biết, các tháng 1-3 và 10-12 hàng năm là cao điểm ô nhiễm do nghịch nhiệt và nguồn phát thải gia tăng từ giao thông, xây dựng, sản xuất công nghiệp.
Trao đổi với PV Tạp chí Kinh tế Môi trường, GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh - Anh hùng Đa dạng sinh học ASEAN - cho rằng, ô nhiễm không khí, đặc biệt do giao thông vận tải và rác thải, là những vấn đề nghiêm trọng tại Hà Nội và các thành phố lớn. Ô nhiễm ở Hà Nội không tách rời với các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Nguyên, vì không khí ô nhiễm lan tỏa qua các vùng. Tương tự, Thành phố Hồ Chí Minh cũng liên quan đến Đồng Nai và các khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Do đó, liên kết vùng trong quản lý ô nhiễm không khí, rác thải nhựa và nguồn nước là cực kỳ quan trọng.
Điều khiến bài toán không khí ở Hà Nội trở nên phức tạp chính là hiện tượng ô nhiễm xuyên biên giới hành chính. Làng nghề tái chế giấy Phong Khê, Phú Lâm tại Bắc Ninh liên tục thải bụi, SO₂, NOx theo gió mùa đông bắc tràn vào Hà Nội.
Tại các tỉnh như Hưng Yên, Phú Thọ, tình trạng đốt rơm rạ sau thu hoạch tạo ra lớp khói mù dày đặc, bao trùm cả vùng ven đô, lan thẳng đến nội thành. Còn từ Thái Nguyên, khí thải trong hoạt động khai khoáng, luyện kim xuôi về trung du và đồng bằng, ảnh hưởng trực tiếp Hà Nội. Các nhà máy xi-măng, nhiệt điện phát thải bụi lớn, tăng áp lực lên không khí toàn vùng.
Tình trạng đốt rơm rạ là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. (Ảnh minh họa)
Không khí ô nhiễm khiến cây xanh mất dần khả năng quang hợp do bụi mịn bám dày trên lá. Ao hồ nội đô hấp thụ hóa chất từ mưa axit, dần biến thành “bể chứa ô nhiễm”. Kiến trúc đô thị bị bụi bám, xuống cấp nhanh chóng, chi phí duy tu, bảo dưỡng tăng cao. Hậu quả nặng nề nhất chính là sức khỏe con người.
Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ NN&MT), mỗi khi nồng độ PM2.5 tăng 10 µg/m³, tỷ lệ nhập viện do bệnh hô hấp ở trẻ em tăng 2,2%. Ước tính năm 2023, có 6.000 ca tử vong sớm tại Hà Nội liên quan trực tiếp đến ô nhiễm không khí. Một vòng xoáy nguy hiểm đang hình thành: Ô nhiễm gây bệnh tật, bệnh tật làm giảm năng suất lao động, chi phí y tế tăng cao, kéo tụt chất lượng sống và sức cạnh tranh của Thủ đô.
Ô nhiễm không khí dẫn đến chỉ số bụi mịn tăng cao đã được các nhà khoa học, các nhà quản lý gọi tên như: Khí thải giao thông (xe cá nhân, xe tải); Công nghiệp - xây dựng; Đốt rơm rạ, rác thải ngoài trời; Sinh hoạt dùng nhiên liệu rắn; Điều kiện khí tượng bất lợi. Khi đã biết nguyên nhân thì chúng ta phải có những hành động cụ thể.
Chia sẻ về vấn đề ô nhiễm không khí liên vùng Hà Nội, TS Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam - cho biết, chúng ta đã biết một đặc điểm của ô nhiễm không khí là tính liên địa phương. Ô nhiễm ở vùng này có thể do những nguồn thải ở vùng đấy và do những nguồn thải ở vùng khác.
“Ví dụ như Hà Nội có thể bị ảnh hưởng bởi các tỉnh xung quanh như Ninh Bình, Hưng Yên,… và những nguồn thải từ các nguồn khác sẽ theo không khí sẽ ảnh hưởng đến vùng Hà Nội. Nội thành Hà Nội cũng bị ảnh hưởng bởi các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoại thành, như việc đốt rác ở ngoại thành cũng ảnh hưởng đến vùng nội thành Hà Nội. Các làng tái chế ở Hưng Yên, Bắc Ninh cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng không khí của Hà Nội. Nghĩa là sự liên địa phương thể hiện ở chỗ đó” - TS Hoàng Dương Tùng nói.
Bên cạnh đó, TS Hoàng Dương Tùng cho rằng, cũng phải xác định ô nhiễm không khí một phần do các nguồn thải ở Hà Nội nhưng cũng biết rõ cần phải có sự phối hợp của các địa phương xung quanh. Chúng ta cũng đã nói đến cơ chế liên tỉnh hoặc vùng Hà Nội. Rõ ràng, để bảo vệ, một mình Hà Nội làm là không đủ mà phải có cơ chế phối hợp giữa các tỉnh xung quanh.
Về tầm vĩ mô, theo TS Hoàng Dương Tùng, vai trò, trách nhiệm thuộc về Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng như Hà Nội và các tỉnh khác. Chúng ta cũng cần phải có sự phối hợp trong việc kiểm soát các nguồn thải. Ví dụ, hiện nay cũng có rất nhiều nguồn thải bụi từ các nhà máy xi-măng như từ Ninh Bình. Cần phải kiểm soát tốt và chỉ rõ ra phát thải bao nhiêu, có những biện pháp gì để chỉ rõ ra nguồn thải đó như thế nào hay như việc phải hạn chế cả việc đốt rơm rạ sao thu hoạch từ Hưng Yên, Ninh Bình và các tỉnh khác. Phải có những biện pháp chung chứ không chỉ là biện pháp ở Hà Nội. Tức là phải có sự phối hợp, chia sẻ thông tin như lên các bản đồ, chia sẻ thông tin và chia sẻ trong chính sách, công nghệ... để làm thế nào trong từng ngành, đặc biệt là trong sản xuất, các cơ sở công nghiệp lớn, trong các làng, làng tái chế, và trong câu chuyện đốt rơm rạ… cần phải có sự phối hợp chung thật tốt.
Các tỉnh, thành trong vùng Thủ đô có 2 hệ thống sông lớn đó là sông Hồng và sông Thái Bình. Cùng với đó là nhiều chi lưu, phụ lưu để cấp nước và tiêu nước cho hệ thống sông chính. Tuy nhiên, trên nhiều con sông hiện nay đang bị ô nhiễm nghiêm trọng được người dân "réo tên" như: sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Ngũ Huyện Khê, kênh Bắc Hưng Hải…
Cũng trong Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2023 có đánh giá: “Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng tại các đoạn sông, nhánh sông tiếp nhận trực tiếp nước thải từ các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nước thải từ làng nghề, tập trung trên các sông ở miền Bắc, đặc biệt ở lưu vực sông Nhuệ - Đáy và lưu vực sông Cầu. Đây là khu vực có mật độ dân cư cao, với nhiều làng nghề truyền thống, hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển.
Kết quả quan trắc nhiều năm trên sông Ngũ Huyện Khê, sông Cầu đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh (thuộc lưu vực sông Cầu), sông Nhuệ đoạn chảy qua ngoại thành TP. Hà Nội tiếp giáp tỉnh Ninh Bình, sông Châu Giang qua tỉnh Ninh Bình (thuộc lưu vực sông Nhuệ - Đáy), nước sông tại đây đều đã bị ô nhiễm, một số đoạn sông bị ô nhiễm rất nặng cần biện pháp xử lý, giá trị các thông số TSS, COD, BOD5, amoni, Coliform… liên tục nhiều năm vượt giá trị giới hạn của QCVN 08-MT:2015/BTNMT (cột A2). Riêng tại điểm Đào Xá (sông Ngũ Huyện Khê) và điểm trên sông Nhuệ chảy qua ngoại thành Hà Nội, giá trị của các thông số vượt giá trị giới hạn của QCVN 08-MT:2015/BTNMT (cột B1). Kết quả quan trắc năm 2023 cũng cho thấy chất lượng nước sông ở mức xấu đến rất xấu (mức C, mức D) theo phân loại chất lượng nước của QCVN 08:2023/BTNMT”.
Trên hệ thống sông Nhuệ - Đáy, mỗi ngày lưu vực sông này tiếp nhận trên 1,2 triệu m³ nước thải, trong đó Hà Nội chiếm tới 60%. Chỉ khoảng 22% lượng nước thải này được xử lý, còn lại phần lớn xả thẳng ra sông. Các thông số môi trường cho thấy: Amoni vượt chuẩn tới 11 lần; COD, BOD cao gấp 2-9 lần. Toàn bộ điểm quan trắc đều không đạt chuẩn QCVN 08:2023. Hậu quả: thủy sinh vật chết hàng loạt, sông mất khả năng tự làm sạch, trở thành dòng chảy ô nhiễm kéo dài từ Hà Nội xuống Ninh Bình.
Ngay trong lòng Thủ đô, sông Tô Lịch trước đây và sông Kim Ngưu mỗi ngày hứng hàng trăm nghìn m³ nước thải sinh hoạt. Dòng sông đen kịt, bốc mùi hôi thối, đầy bọt trắng, biến thành nỗi ám ảnh của người dân sống ven bờ. Thời gian vừa qua, hệ thống thu gom nước thải được xây dựng trên hệ thống sông Tô Lịch và bổ cập nước từ Hồ Tây đã phần nào làm giảm tình trạng ô nhiễm trên tuyến sông này.
Ngược lên mạn phía bắc của Hà Nội, sông Cầu, sông Cà Lồ đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm do nguồn thải từ hoạt động công nghiệp, đe dọa gây ô nhiễm cho vùng hạ lưu. Ở Phú Thọ, Bắc Ninh, hoạt động tái chế giấy, nhựa, luyện kim thải ra lượng lớn hóa chất, kim loại nặng xuống sông Cầu, Cà Lồ. Các dòng sông này lại kết nối với sông Hồng - nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho nhiều địa phương.
Sông Tô Lịch (đoạn chảy qua ga Láng) hồi tháng 9/2025 xảy ra tình trạng ô nhiễm, dòng sông có màu đen và bốc mùi khó chịu. (Ảnh: Duy Khánh)
Theo TS Nguyễn Thị Ngọc Trúc (Viện Cây ăn quả miền Nam), những kim loại thường xuất hiện nhiều trong đất nông nghiệp là cadimi (Cd), chì (Pb), đồng (Cu) và kẽm (Zn). Trong đó, chì và cadimi là hai nguyên tố gây hại nhất vì có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gan, thận và làm tăng nguy cơ ung thư.
“Kim loại nặng không chỉ gây tổn hại cho cây trồng mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Nồng độ cao của chúng có thể làm giảm độ phì nhiêu đất và gây độc tính sinh thái” - TS. Trúc chia sẻ.
Không chỉ ô nhiễm từng dòng sông riêng lẻ, mà cả hệ thống sông vùng Thủ đô đang mắc kẹt trong một vòng xoáy ô nhiễm cộng hưởng. Sông Kim Ngưu, Lừ, sông Sét chảy vào sông Tô Lịch rồi đổ vào sông Nhuệ, biến sông Nhuệ thành “kênh chứa” khổng lồ của toàn bộ nước thải nội đô. Sông Nhuệ sau đó mang ô nhiễm từ Hà Nội xuống sông Đáy, kéo theo cả lưu vực Ninh Bình, Nam Định (cũ) bị ảnh hưởng. Chỉ cần một mắt xích bị “nhiễm bệnh”, toàn bộ hệ thống gánh hậu quả. Ô nhiễm từ sông nội đô hòa vào sông ngoại thành, rồi quay trở lại nội thành qua nước sinh hoạt, thực phẩm, thậm chí cả không khí bốc hơi từ mặt sông. Giới chuyên gia ví von: “Nếu coi mỗi con sông là một mạch máu, thì hiện nay cả hệ tuần hoàn thủy văn vùng thủ đô đang nhiễm độc. Máu xấu chảy khắp nơi, không còn ranh giới trong - ngoài”.
Ô nhiễm môi trường còn âm thầm hủy hoại đất, tư liệu sản xuất quan trọng. Nước thải ô nhiễm được dùng để tưới tiêu khiến đất tích tụ kim loại nặng. Ở ven sông Nhuệ, nhiều ruộng lúa ghi nhận hàm lượng chì, cadimi vượt chuẩn. Nông dân buộc phải bón nhiều hóa chất để duy trì năng suất, càng làm đất thoái hóa.
Tại Bắc Ninh, bãi thải rắn từ làng nghề giấy, nhựa chất đống hàng nghìn tấn, gây ô nhiễm tầng đất mặt. Quá trình phục hồi có thể kéo dài hàng thập kỷ. Đất bạc màu đồng nghĩa sinh kế người dân bị đe dọa. Rau vùng Thanh Trì, cá lồng trên sông Đáy, lúa ven sông Nhuệ - tất cả có nguy cơ trở thành “mắt xích ô nhiễm” trong chuỗi cung ứng thực phẩm cho người dân.
Đánh giá về vấn đề ô nhiễm liên vùng này, PGS.TS Trương Mạnh Tiến - Chủ tịch Mạng lưới Bảo tồn Nguồn nước Việt Nam (VIWACON) - cho rằng, vấn đề ô nhiễm nguồn nước liên vùng thủ đô Hà Nội còn rất nặng nề, mặc dù đã có những sự nỗ lực cố gắng của các ngành cũng như địa phương. Đặc biệt là việc hình thành ủy ban lưu vực sông để hoạt động, nhưng qua các hoạt động của các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và sông Sài Gòn còn có vấn đề chưa đạt được như mong muốn.
“Nặng nề nhất là hệ thống kênh Bắc Hưng Hải, sự cố gắng của các cấp chính quyền ở các địa phương là có, nhưng quan trọng nhất là các nguồn thải vào không những không giảm mà còn tăng lên. Có nghĩa mỗi khi anh cho một nhà máy, xí nghiệp vận hành, anh chỉ cho phép từng này thôi, nhưng anh lại cho quá đông, quá nhiều, vì thế sức chịu tải của hệ thống sông không đảm bảo dẫn đến việc ô nhiễm là đương nhiên”, PGS.TS Trương Mạnh Tiến nhấn mạnh.
Trong quá trình thực hiện bài viết, chúng tôi cũng đã tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế môi trường nhằm tìm ra một giải pháp hiệu quả và tốt nhất cho câu chuyện bảo vệ môi trường cho vùng Thủ đô.
Theo các chuyên gia, đầu tiên là các địa phương phải minh bạch dữ liệu, giám sát liên thông. Các chuyên gia khẳng định: Không thể quản lý môi trường bằng “cảm tính”. Vùng Thủ đô cần hệ thống quan trắc tự động, liên thông toàn diện về không khí, nước, đất; dữ liệu phải được công bố công khai theo thời gian thực. Minh bạch chính là chìa khóa để tăng trách nhiệm và tạo niềm tin với người dân.
Thứ hai, cần đồng bộ hạ tầng xử lý. Hà Nội cần nâng tỷ lệ xử lý nước thải từ 22% hiện nay lên tối thiểu 70% trong vòng 10 năm tới. Bắc Ninh, Hưng Yên, Phú Thọ phải đầu tư nhà máy xử lý tại các cụm công nghiệp, làng nghề. Các nhà máy xi-măng, nhiệt điện, luyện kim phải áp dụng công nghệ lọc bụi, khí thải hiện đại, giảm phát thải về đúng chuẩn.
Thứ ba, cần cơ chế điều phối Vùng Thủ đô. Một Hội đồng bảo vệ môi trường vùng Thủ đô cần được thành lập, với thẩm quyền điều phối, giám sát và xử phạt liên tỉnh. Mọi vi phạm môi trường ở Bắc Ninh, Hưng Yên không chỉ ảnh hưởng đến địa phương đó, mà phải chịu trách nhiệm trước cả Hà Nội và các tỉnh khác.
Thứ tư, chuyển đổi sang kinh tế xanh. Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sản xuất sạch hơn. Cấm hoàn toàn đốt rơm rạ, thay thế bằng mô hình thu gom phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất năng lượng, phân bón hữu cơ. Vận động người dân giảm sử dụng than tổ ong, phân loại rác tại nguồn, chuyển sang tiêu dùng xanh.
Cuối cùng, cần tăng cường hợp tác quốc tế. Tận dụng các nguồn vốn ODA, vay ưu đãi để đầu tư hạ tầng xử lý nước thải, khí thải. Đồng thời học hỏi kinh nghiệm của Tokyo, Seoul trong quản lý môi trường liên vùng - nơi từng đối diện thách thức tương tự.
Sông Đáy, đoạn chảy qua ranh giới giữa huyện Quốc Oai và huyện Hoài Đức (cũ). (Ảnh: Duy Khánh)
Để hạn chế ô nhiễm môi trường Vùng Thủ đô, PGS.TS Trương Mạnh Tiến - Chủ tịch Mạng lưới Bảo tồn Nguồn nước Việt Nam (VIWACON) - đưa ra 5 giải pháp. Trong đó, đầu tiên là cần sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp chính quyền địa phương. Thứ hai, tăng cường trách nhiệm, pháp lý của các doanh nghiệp. Thứ ba, cần phải có sự đầu tư về kinh phí để triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường. Thứ tư, cần áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ, cần phải có công nghệ tiên tiến trong quá trình xây dựng vận hành các nhà máy, xí nghiệp. Cuối cùng là cần nâng cao ý thức cộng đồng và sự tham gia trực tiếp của cộng đồng.
Cũng đưa ra lời giải cho bài toán môi trường Vùng Hà Nội, GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh - Anh hùng Đa dạng sinh học ASEAN - cho rằng, cần liên kết chặt chẽ giữa Hà Nội và các tỉnh lân cận để làm sạch môi trường đất, sông, nước. Ví dụ, nếu chỉ Hà Nội sạch mà các tỉnh xung quanh không xử lý rác thải tốt thì vấn đề ô nhiễm vẫn không được giải quyết triệt để. Hà Nội, với vai trò thành phố công nghiệp, tạo ra lượng lớn rác thải công nghiệp như đồ điện tử, tivi, bóng đèn. Trong khi đó, ở nông thôn, rác thải từ chăn nuôi như phân trâu, bò, nếu không được xử lý đúng cách, sẽ gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến rau, hoa, và sức khỏe con người. Thậm chí, các loài nhỏ như chuột cũng mang vi khuẩn gây bệnh như viêm não Nhật Bản, ảnh hưởng đến trẻ em, người già và những người có sức đề kháng yếu.
Cùng bàn về vấn đề này, PGS.TS Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (VIASEE) - cho rằng, vấn đề ô nhiễm Vùng Thủ đô vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Trong đó có ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt còn nhiều tồn tại. Ô nhiễm không khí đang hiện hữu ở tất cả các đô thị và đặc biệt là trong nội thành Hà Nội.
Theo PGS.TS Lưu Đức Hải, để giải quyết vấn đề ô nhiễm nói chung, chúng ta phải đặt ra vấn đề xử lý các nguồn ô nhiễm trước khi thải ra môi trường.
“Nếu anh không kiểm soát được vấn đề xử lý nguồn nước ô nhiễm và cho thải vào hệ thống sông thì dứt khoát là ô nhiễm. Như vậy cần kiểm soát việc xử lý nước ở các địa phương nơi phát sinh các nguồn ấy. Những nguồn nước ô nhiễm đổ xuống kênh Bắc Hưng Hải thì anh phải xử lý. Nếu không xử lý thì không có cách gì để làm sạch kênh ấy. Không thể xử lý toàn bộ hệ thống nước trên kênh Bắc Hưng Hải, mà chỉ có thể xử lý nguồn ô nhiễm thải vào dòng sông. Trên sông Ngũ Huyện Khê cũng như thế” - PGS.TS Lưu Đức Hải chia sẻ.
Còn theo TS. Hoàng Dương Tùng, ở đây có vai trò rất lớn của doanh nghiệp và người dân. Nếu doanh nghiệp cảm thấy công tác bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mình thì doanh nghiệp sẽ có những đầu tư nhiều hơn trong hệ thống xử lý khí thải, vì hệ thống này khá đắt đỏ. Rồi công tác vận hành sẽ liên tục chứ không vì lợi ích kinh tế mà người ta hạn chế hoạt động. Các công trình xây dựng cũng phải tuân thủ các quy định của luật bảo vệ môi trường mặc dù tốn kinh phí.
“Chúng ta phải xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường, kể cả nhà nước. Nhà nước thấy có vấn đề ô nhiễm thì cần có những quy định như quan trắc phải đầy đủ hơn, công bố nhiều hơn các số liệu, có những chính sách - biện pháp để kiểm soát chặt chẽ hơn, công khai hơn. Doanh nghiệp phải có trách nhiệm hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Người dân phải có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ môi trường. Như thế tôi nghĩ xây dựng một nền văn hóa trong xã hội hiện đại mình cần phải có…”, TS. Hoàng Dương Tùng nhấn mạnh.
Ô nhiễm môi trường ở Vùng Thủ đô không còn là câu chuyện của riêng Hà Nội hay bất kỳ tỉnh nào. Khi Bắc Ninh đốt rơm, Hà Nội hít bụi. Khi Phú Thọ, Thái Nguyên xả thải, sông Hồng, sông Cầu “hấp hối”. Khi đất ven sông nhiễm độc, mâm cơm của người dân không còn an toàn. Đây là vòng xoáy liên kết, nơi mỗi hành động ở ngoại vi đều để lại dấu ấn trong lõi đô thị. Bảo vệ môi trường liên Vùng Thủ đô chính là bảo vệ Hà Nội - trái tim cả nước. Nếu không hành động quyết liệt, những vết rạn sinh thái sẽ ngày càng sâu, kéo theo hệ quả khôn lường cho sức khỏe cộng đồng, kinh tế và tương lai phát triển của cả vùng.
* Trong tuyến bài viết này, các tỉnh, thành trong Vùng Thủ đô được căn cứ theo Quyết định số 768 ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 và các quyết định của Trung ương và địa phương về sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh; Nghị quyết số 202/2025/QH15 về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh của Quốc hội.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia năm 2023/ Bộ NN&MT/ ngày 8/1/2025
2. https://nongnghiepmoitruong.vn/ngan-chan-nguy-co-kim-loai-nang-trong-nong-nghiep-d772503.html)
3. https://nhandan.vn/xu-ly-o-nhiem-nguon-nuoc-he-thong-bac-hung-hai-va-song-nhue-post884614.html
Quang Sơn - Duy Khánh - Xuân Bách