Văn học Việt Nam sau 1975: Thành tựu và triển vọng

Văn học Việt Nam sau 1975: Thành tựu và triển vọng
6 giờ trướcBài gốc
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam phát biểu. Ảnh: Nguyễn Hoa
Phát biểu khai mạc hội thảo, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận định, sau năm 1975, hiện thực đời sống đất nước mở ra bức tranh vô cùng phong phú, đa dạng. Từ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, đến những vấn đề gai góc như tham nhũng, biến đổi môi trường… tất cả trở thành nguồn chất liệu dồi dào, sống động cho sáng tạo văn học.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn nhận, từ sau 1975, diện mạo văn học Việt Nam đã thay đổi căn bản khi hội tụ ba nguồn mạch: Văn học miền Bắc, văn học miền Nam trước 1975 và văn học hải ngoại. Đặc biệt, giai đoạn Đổi mới trở thành bước ngoặt lớn, cho phép đánh giá lại nhiều tác giả, tác phẩm từng bị khuất lấp và mở ra sự đa dạng về khuynh hướng, mỹ học cũng như ảnh hưởng quan trọng từ văn học dịch.
Các văn nghệ sĩ tại hội thảo. Ảnh: Nguyễn Hoa
50 năm qua, văn học Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về sáng tác lẫn lý luận phê bình. Nổi bật là dấu ấn trong việc khẳng định bản sắc dân tộc, mở rộng đối thoại quốc tế, làm mới thể loại và nâng cao tính chuyên nghiệp. Sức sống của sáng tác thể hiện ở sự đa dạng về thể loại và nội dung, cảm thức dân tộc gắn với khát vọng nhân văn, sự tiếp nhận những thành tựu lý luận phê bình hiện đại, cùng sự trưởng thành của đội ngũ sáng tác.
Sau 1975, văn học luôn gắn bó mật thiết với đời sống, phản ánh sinh động các bước chuyển của đất nước, từ đổi mới kinh tế, hội nhập quốc tế đến những vấn đề xã hội như đô thị hóa, công nghiệp hóa, phong tục tập quán, giáo dục, gia đình hay môi trường… Song song với đó, sự phát triển của giáo dục, văn hóa đọc, hệ thống xuất bản, nhà sách, thư viện đã mở rộng khả năng tiếp cận của văn học. Nhiều dòng văn học như văn học miền núi, dân tộc thiểu số, thiếu nhi, tuổi mới lớn có điều kiện lan tỏa đến đông đảo bạn đọc.
Tuy nhiên, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho rằng, các nhà văn giai đoạn này chưa vượt thoát khỏi lối mòn tư duy và sự an toàn trong sáng tạo. Điều đó khiến chân dung văn học Việt Nam vẫn còn rời rạc, chưa đạt tới những tác phẩm “ngang tầm thời đại” như mong đợi.
Theo ông, đã đến lúc mỗi nhà văn phải tự soi chiếu liệu về lòng dũng cảm để đi đến tận cùng sáng tạo; phải vượt qua lối mòn thì văn học Việt Nam mới có thể sinh ra những tác phẩm thực sự đột phá, lay động, góp phần vào tiến trình tư tưởng và thẩm mỹ của xã hội.
Bước vào thời đại công nghệ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều thẳng thắn nêu vấn đề trí tuệ nhân tạo (AI) trong sáng tác. Theo ông, AI chỉ có thể thắng khi nhà văn đánh mất bản lĩnh, sáng tạo và xúc cảm riêng. Vũ khí chống lại nguy cơ ấy chính là trí tuệ, chính kiến và sự khác biệt cá nhân của mỗi người cầm bút.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kỳ vọng, hội thảo là nơi gợi mở để các nhà văn đối diện trực diện với thách thức, can đảm phá bỏ giới hạn của chính mình, từ đó góp phần định hình rõ nét chân dung văn học Việt Nam trong nền văn học thế giới.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhấn mạnh, văn học có giá trị kiến tạo và bồi đắp đời sống tinh thần của con người. Văn học ra đời để con người sống lạc quan, nhân ái, đẹp hơn và “người” hơn với nhau. Muốn thực hành được điều này thì văn học phải bắt nguồn từ hiện thực đời sống, phải “hút dưỡng chất từ đó, mọc rễ từ đó và tỏa bóng mát xuống nơi đó”.
Theo nhà văn Nguyễn Bình Phương, 50 năm trong dòng chảy lịch sử nhân loại không dài, song với văn học thì đây là khoảng thời gian đáng kể. Trong 50 năm qua, đất nước đã trải qua nhiều biến động và phát triển, nhiều tác phẩm văn học bắt nguồn từ đây ra đời. Hội thảo lần này chính là cơ hội để giới nghiên cứu, sáng tác đối thoại thẳng thắn, khoa học và khách quan về văn học Việt Nam sau năm 1975 và từ đó phát triển, đưa văn học Việt Nam hội nhập, sánh ngang với thế giới.
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Lữ Mai
Đại tá, nhà thơ Trần Anh Thái trong tham luận “Cuộc đổi mới văn học 1975-2025”, nhấn mạnh: “Văn học đổi mới cố gắng đi vào những tầng sâu kín nhất, khao khát hướng tới những vấn đề cốt lõi của đời sống con người. Những tác phẩm như thế thường mang tính phản tỉnh cao. Nó tự phê phán và không ngần ngại bóc trần sự thật, dám viết lên những điều mà văn học trước đó chưa từng được biết đến, tất cả chỉ với mục tiêu nâng đỡ con người, hướng con người tới những điều tốt đẹp... Có thể nói, văn học Việt Nam sau 50 năm đã tiến một bước dài trên con đường hiện đại hóa để từng bước hội nhập vào nền văn học thế giới”.
Theo nhà thơ Trần Anh Thái, có lẽ chưa một thời kỳ nào trong lịch sử, người viết lại được tự do biểu hiện mọi suy nghĩ của mình như giai đoạn đổi mới vừa qua. Sự đổi mới này diễn ra sôi động, sâu rộng, mạnh mẽ, quyết liệt với muôn vàn cách thức biểu hiện phong phú, đa dạng nhằm khai thác tối đa chiều sâu tâm linh và những góc khuất trong sâu thẳm tâm hồn con người.
Giáo sư Phong Lê nhận định: “Trở lại hơn 30 năm qua, tính từ sau 1990, đời sống văn học chúng ta vẫn có sự xuất hiện đều, và càng về sau càng nhiều những tên tuổi mới. Nhưng dường như tất cả họ vẫn chưa hội được thành một đội ngũ, trong một cuộc hành trình không lẫn vào nhau, nhưng cũng không quay lưng với nhau; với cái gọi là “cá tính sáng tạo” thật sự, được xác định bằng chính nội lực bản thân, mà không cần gây “sốc”; được chấp nhận không phải chỉ ở một vài cây bút phê bình hoặc nhà văn cấp tiến mà là số đông người đọc”.
Theo Giáo sư Phong Lê, những chuyển động như thế phải nói là rất lớn và có tầm một cuộc chuyển giao. Để có đủ tiềm lực và hành trang cho một chuyển đổi mang tính cách mạng như thế, văn học, cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, cần đến những lực lượng trẻ. Mà nói trẻ là nói đến những thế hệ trên dưới tuổi 30, thậm chí là trong ngoài 20, chứ không thể là 60 hoặc hơn”.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong tham luận về sứ mệnh hòa hợp, hòa giải dân tộc, chia sẻ: “Văn học có sức mạnh đặc biệt tạo nên tiếng nói chung vượt qua rào cản chính trị và biên giới. Nhiều nhà văn trong nước và ngoài nước thời gian qua đã bắt đầu đối thoại, tìm đến nhau, đọc tác phẩm của nhau, để từ đó xóa đi những định kiến cố hữu”.
Ông cho rằng, sau 50 năm, những người trực tiếp tham chiến đã về già, nhiều người đã ra đi. Một thế hệ mới sinh ra và lớn lên trong hòa bình đang tiếp nhận ký ức chiến tranh như những mảnh rời rạc. Nếu văn chương không lên tiếng để nối lại các mảnh rời ấy, ký ức tập thể sẽ dần mờ nhạt, trong khi vết thương vẫn còn âm ỉ.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhu cầu hòa hợp, hòa giải càng trở nên cấp thiết. Đối với dân tộc, chỉ khi chấp nhận quá khứ với tất cả đa dạng và phức tạp, người Việt mới có thể đoàn kết thực sự, vượt qua mặc cảm để xây dựng tương lai. Đối với văn chương, hòa giải mở ra không gian sáng tạo tự do, giúp nhà văn chạm đến chiều sâu nhân bản, vượt ra ngoài biên giới chính trị. Đối với thế giới, một nền văn chương biết tự đối diện với quá khứ sẽ nhận được sự tôn trọng quốc tế, trở thành tấm gương cho những quốc gia từng trải qua chiến tranh.
Tổng kết hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình, Hội Nhà văn Việt Nam cho biết, cùng với các tham luận gửi về Ban tổ chức, tại hội thảo đã có 7 tham luận được trình bày, 5 ý kiến phát biểu. Nhiều ý kiến nhận định, văn học sau 1975 đã mở ra những ngả đường sáng tạo mới. Đội ngũ nhà văn đã có những đổi mới trong nhận thức, trong tư duy, trong bút pháp. Nhiều ý kiến, tham luận sâu về chuyên môn sáng tác, lý luận phê bình. Còn có những vấn đề hội thảo đặt ra nhưng chưa được tập trung thảo luận sâu, cần tiếp tục được quan tâm bàn thảo trong thời gian tới.
Phụng Thiên
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/van-hoc-viet-nam-sau-1975-thanh-tuu-va-trien-vong-a30483.html