Bức trướng được bảo quản tại đình Pò Háng
Những ngày tháng 8/2025, chúng tôi có dịp đến xã Kiên Mộc - một xã miền núi, biên giới được thành lập mới trên cơ sở sáp nhập 3 xã: Kiên Mộc, Bính Xá, Bắc Xa để đến thăm di tích đình Pò Háng. Xã Kiên Mộc hôm nay đã có nhiều đổi thay, đây là kết quả của biết bao năm đổ mồ hôi, gìn giữ đất rừng, tôn tạo di tích, để ký ức hào hùng hòa vào sự trù phú và bình yên.
Pháo đài tâm linh giữa cuộc kháng chiến
Ngôi đình Pò Háng nằm trên một quả đồi thấp ở thôn Pò Háng, xã Bính Xá (nay thuộc xã Kiên Mộc), theo Bà con nơi đây, Pò Háng tiếng Tày “Pò” có nghĩa là quả đồi thấp, “Háng” có nghĩa là chợ. Pò Háng là một quả đồi thấp, nơi họp chợ của người dân. Đình được dựng trước năm 1940 để thờ Thành hoàng, tướng Lương Quảng Đãi, một võ tướng gắn với truyền thuyết cư dân bản địa. Từ lâu, đình là nơi hội tụ tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa của bà con Tày, Nùng; họp chợ, trao đổi hàng hóa; mỗi dịp xuân về, tiếng đàn then, lời sli và câu lượn vẫn được ngân vang dưới sân đình. Hơn một năm sau Cách mạng tháng Tám 1945, không gian yên bình ấy đã trở thành trung tâm của chiến khu kháng chiến Nà Thuộc.
Chiến khu Nà Thuộc được thành lập năm 1946, gồm ba xã Bính Xá, Kiên Mộc và Bắc Xa (trước đây), sau khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Đây là vùng núi cao hiểm trở, nằm ở phía Bắc huyện Đình Lập cũ, giáp biên giới. Bằng đường mòn, đường rừng, quân Pháp định đánh thốc vào “vùng tự do” nhưng vấp phải sự chuẩn bị kỹ lưỡng của quân và dân địa phương. Ngày 14/4/1947, một tiểu đoàn viễn chinh với khoảng 350 lính Âu – Phi cùng tay sai, xe cơ giới, súng cối và súng máy từ hướng Đình Lập tiến vào trung tâm xã Kiên Mộc qua đèo Khau Háy. Toàn bộ lực lượng bộ đội địa phương và du kích đã bố trí mai phục. Khoảng 8 giờ 30 phút sáng, khi đội hình địch lọt vào trận địa, tiếng súng nổ rền, lực lượng ta đồng loạt xung phong. Kẻ địch hoảng loạn, rút lui. Trong trận đánh này ta tiêu diệt 46 tên địch, thu hàng chục khẩu súng trường, một súng máy, hai súng cối. Đây được xem là chiến thắng trận đầu của chiến khu Nà Thuộc, làm nức lòng quân dân, cổ vũ tinh thần kháng chiến trên khắp Việt Bắc.
Một góc thôn Pò Háng
Sau trận thua đó, quân Pháp mở liên tiếp các đợt tấn công (15 cuộc), có cả máy bay và pháo binh yểm trợ. Để chống trả quân địch và tăng thêm nhuệ khí quân, dân ta, trước trận đánh, dân Nà Thuộc tụ họp ở đình Pò Háng, cắt máu ăn thề trước bàn thờ Thành hoàng, nguyện hy sinh để bảo vệ quê hương. Họ phất cờ, nổi chiêng trống, gõ thanh la để cổ vũ bộ đội. Khi dân làng nổi lửa đốt rơm để tạo những cột khói lớn, bất ngờ khi đó trời xuất hiện mây mù cùng các cơn gió thổi rất mạnh làm những đám khói khổng lồ bốc cao lên trời, hướng đến khu vực quân Pháp, khiến kẻ địch cay mắt, hoảng loạn, giúp quân, dân ta chiến thắng. Từ đó, Nhân dân trên địa bàn quan niệm, chiến thắng của các trận đánh gắn với sự linh thiêng của Thành hoàng.
Tin chiến thắng lan đến nhiều địa phương, vang cả chiến khu Việt Bắc, khích lệ tinh thần kháng chiến của cả nước. Sau những chiến công liên tiếp, đầu năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh trao tặng quân và dân khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc Huân chương Chiến công hạng Ba và cho may bức trướng đặc biệt phong tặng Thành hoàng đình Pò Háng. Bức trướng bằng vải đỏ thêu chữ vàng, chính giữa là dòng đại tự bằng chữ Hán “Kháng chiến hộ ủng” (ủng hộ kháng chiến); bên phải ghi “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tam niên”, tức năm thứ ba của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; bên trái là dòng “Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàng dự” (Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng). Thông điệp trang trọng ấy vừa là lời cổ vũ, vừa khẳng định sự quan tâm của Bác Hồ đối với đồng bào vùng biên giới.
Đó là niềm tự hào lớn lao của quân dân Nà Thuộc. Mỗi khi có dịp nhìn bức trướng, người Kiên Mộc lại bùi ngùi tưởng nhớ năm tháng khốc liệt, nhớ lời dặn dò của Bác: “Chiến khu dù xa mấy cũng là khúc ruột của Tổ quốc”.
Ông Bế Văn Túc, người trông nom đình ngày nay cho biết: Theo lời các cụ cao niên kể lại, thời điểm được tin nhận bức trướng, cả vùng như mở hội. Bà con không chỉ xem đó là niềm vinh dự mà còn là lời nhắc nhở phải tiếp tục chiến đấu. Bức trướng được treo trang trọng trên bàn thờ Thành hoàng, mỗi khi có dịp lễ, các cụ lại thắp hương khấn vái cảm ơn Bác, cảm ơn tổ tiên đã phù hộ. Cho đến hôm nay, mỗi mùa hội làng, các cụ vẫn đọc lại văn bia, kể lại việc Bác Hồ ký tên lên lệnh khen thưởng, để lớp trẻ hiểu rằng lịch sử không phải là khái niệm trừu tượng mà là hành trình ông cha đã đi qua bằng mồ hôi và máu.
Đối với ngôi đình Pò Háng, trước đây đình là nhà trình tường lợp ngói máng, rộng lớn. Gần đình có cây đa to, tán xòe rộng tạo bóng mát che cho cả trăm người ngồi dưới gốc. Sau hơn nửa thế kỷ, năm 1995, đình được xây dựng lại bằng tường gạch, mái lợp ngói âm dương, diện tích khoảng 20m². Cùng đó, cấp ủy, chính quyền và Nhân dân xã Kiên Mộc đã chung tay tu bổ các hạng mục như sân bê tông, nhà đón khách, tường bao. Hằng năm, vào ngày 3/3 âm lịch (Tết Hàn thực) dân làng tổ chức lễ hội đình Pò Háng để tưởng nhớ chiến thắng trận đầu và cầu cho quốc thái dân an. Trong tiếng chiêng, tiếng trống, những điệu hát then, hát lượn, người trẻ hôm nay biết mình đang đứng ở nơi cha ông phất cờ khởi nghĩa, nơi Bác Hồ gửi gắm niềm tin.
Sức sống mới trên chiến khu xưa
Rời đình Pò Háng, chúng tôi thả bộ theo con đường bê tông dẫn tới các bản làng, tìm hiểu về vùng quê sau sáp nhập. Sau khi sáp nhập 3 xã Bính Xá, Kiên Mộc và Bắc Xa, xã Kiên Mộc ngày nay có diện tích hơn 41.700 ha với 35 thôn, 1.747 hộ và gần 8.000 nhân khẩu gồm 8 dân tộc, chủ yếu là Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ. Xã cũng có tuyến biên giới dài hơn 40 km, vì vậy, Kiên Mộc vừa mang trọng trách giữ đất, vừa có cơ hội giao thương với nước bạn.
Khu vực này vốn là vùng đầu nguồn sông Kỳ Cùng, đất đai màu mỡ, khí hậu mát mẻ, Kiên Mộc có lợi thế lớn về trồng rừng và cây dược liệu. Cấp ủy và chính quyền xã đã định hướng phát triển lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Mỗi năm, toàn xã trồng mới trên 700 ha rừng gỗ nguyên liệu, chủ yếu là thông, keo, bạch đàn, quế; khai thác hơn 6.000 tấn nhựa thông, thu hoạch 400-600 tấn hoa hồi, hơn 25 tấn sa nhân và khoảng 7.500 m³ gỗ rừng trồng. Nghề rừng đã mang lại nguồn thu nhập ổn định, giúp nhiều hộ thoát nghèo.
Ông Hoàng Văn Hội, Chủ tịch UBND xã Kiên Mộc cho biết: chính quyền xã đã cụ thể hóa các nghị quyết phát triển kinh tế của Đảng ủy và HĐND bằng những kế hoạch cụ thể, chú trọng khuyến khích kinh tế tập thể và thương mại dịch vụ. Xã hiện có 4 doanh nghiệp, 5 hợp tác xã và hơn 70 hộ kinh doanh thương mại; 6 mô hình chăn nuôi cho thu nhập cao. Cùng với các sản phẩm của địa phương, người dân còn tích cực giới thiệu các sản phẩm OCOP, kết nối với du khách ở những tuyến đường biên giới. Du lịch trải nghiệm như “cung đường hoa cỏ lau” từ cột mốc 1297 đến mốc 1300, du lịch đầu nguồn sông Kỳ Cùng… cũng tạo thêm nguồn thu mới.
Cùng với phát triển kinh tế, chương trình xây dựng nông thôn mới đã thổi luồng gió đổi thay vào từng góc làng. Hiện toàn xã tỷ lệ đường bê tông nông thôn đạt 85,53%; 100% hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; công trình thủy lợi đáp ứng 94% diện tích sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 262 hộ năm 2020 xuống còn 27 hộ vào năm 2025. Toàn xã có trên 500 hộ đạt thu nhập trên 100 triệu đồng/năm.
Đến Kiên Mộc hôm nay, câu chuyện bức trướng “Kháng chiến hộ ủng” hiện lên như nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Hình bóng bức trướng đỏ thắm như nhắc nhở cuộc sống hôm nay có được là từ những hy sinh của cha ông trong quá khứ. Trong hiện tại và tương lai, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Kiên Mộc sẽ tiếp tục phát huy truyền thống của quê hương anh hùng, tích cực lao động, sản xuất, xây dựng vùng đất biên cương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
THỤC QUYÊN - HOÀNG TÙNG