Lợi thế đặc biệt về phát triển nông nghiêp
Theo ông Nguyễn Xuân Cường, Việt Nam sở hữu những lợi thế không phải quốc gia nào cũng có được. Hai đồng bằng rộng lớn tạo điều kiện cho sản xuất lúa nước; vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ thích hợp phát triển cây công nghiệp; dọc bờ biển dài là không gian giàu tiềm năng nuôi trồng và khai thác thủy sản.
Ông Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, nông nghiệp là kế sinh nhai của phần lớn dân cư và giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn và góp gần 12% GDP cả nước. Nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ trong mọi bối cảnh của nền kinh tế, trong xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế.
Việt Nam có lợi thế đặc biệt về phát triển nông nghiệp.
Không chỉ là nơi cung cấp thực phẩm cho gần 100 triệu dân, nông nghiệp còn là ngành tạo lực đẩy trực tiếp cho công nghiệp và dịch vụ phát triển. Nông dân trở thành thị trường tiêu thụ quan trọng đối với nhiều lĩnh vực: Cơ khí, chế tạo máy nông nghiệp, phân bón, dịch vụ thương mại...
“Điều này có nghĩa là tăng trưởng ngành nông nghiệp giúp kéo theo tăng trưởng chung mạnh nhất, do sử dụng nhiều lao động và đầu vào từ các ngành khác”, ông Nguyễn Xuân Cường chia sẻ.
Xuất khẩu nông sản liên tục tăng về quy mô, giá trị và độ phủ sản phẩm trên thị trường quốc tế. Hình ảnh Việt Nam gắn với sự bảo đảm an ninh lương thực và đóng góp cho thế giới, đặc biệt trong những biến động về cung cầu lương thực toàn cầu.
Bên cạnh đó, phát triển lâm nghiệp và các mô hình sinh thái giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào các cam kết giảm phát thải khí nhà kính, mở ra những cơ hội phát triển mới dựa trên tiêu chí xanh và bền vững.
Bước ngoặt chính sách cho phát triển bền vững
Nói về những chuyển biến mạnh mẽ của ngành trong nhiều năm qua, ông Nguyễn Xuân Cường đánh giá cao sự quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước đối với khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Từ Khoán 10 năm 1988, dấu mốc giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tạo cú hích cho nông nghiệp, nông thôn phát triển; đến các chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện trong quá trình hội nhập, tư duy về “Tam nông” luôn được đặt ở vị trí chiến lược.
Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và gần đây là Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII đã khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn lực của đất nước phải tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Theo nguyên Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, những thành tựu đạt được trong hơn 40 năm đổi mới đã đưa nông nghiệp Việt Nam vượt xa vị thế ban đầu. Năng suất nhiều ngành hàng như lúa, trái cây, thủy sản liên tục cải thiện. Nông sản Việt Nam đã có mặt tại gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đưa Việt Nam lên đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 13 thế giới về xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Qua đó, khẳng định nông sản Việt đã bước lên một tầm cao mới và khẳng định tiềm năng, lợi thế để phát triển mạnh mẽ trong quá trình hội nhập quốc tế.
Điều quan trọng hơn, sự chuyển dịch cơ cấu ngành đang diễn ra theo hướng chất lượng thay vì số lượng: giảm phụ thuộc vào sản xuất thô, gia tăng tỷ trọng chế biến sâu và dịch vụ nông nghiệp. Tư duy sản xuất xanh được chú trọng, tạo tiền đề cho tăng trưởng dài hạn trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Nhìn về tương lai, theo ông Nguyễn Xuân Cường cần phát triển một nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới phồn vinh và văn minh. Phấn đấu thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại.
Quang Phong/Báo Tin tức và Dân tộc