Vua Minh Mệnh tổ chức lại bộ máy chính quyền địa phương như thế nào?

Vua Minh Mệnh tổ chức lại bộ máy chính quyền địa phương như thế nào?
6 giờ trướcBài gốc
Trong suốt 30 năm đầu của triều Nguyễn (thời kỳ Gia Long và 10 năm đầu thời Minh Mệnh), đất nước Việt Nam được chia thành các trấn, dưới trấn là phủ, huyện (miền núi là châu) và xã.
Có hai đơn vị hành chính tồn tại trùm lên trên các trấn, đó là Bắc thành đứng đầu là Tổng trấn Bắc thành cai quản cả 11 trấn Bắc Kỳ và Gia Định thành đứng đầu là Tổng trấn Gia Định thành cai quản 5 trấn Nam Kỳ.
Xóa bỏ “Thành”, “Trấn”, chia đặt lại cả nước thành 31 tỉnh
Việc tồn tại đơn vị hành chính “Thành” dẫn đến tình trạng đất nước về hình thức tuy thống nhất nhưng trên thực tế xu hướng phân quyền, cát cứ được nuôi dưỡng và phát triển bởi quyền hành của Tổng trấn quá lớn, gần như Phó vương.
Tranh vẽ vua Minh Mệnh trong sách của John Crawfurd. Nguồn: wikipedia.
Năm 1820, khi mới lên ngôi, vua Minh Mệnh đã tính đến việc xóa bỏ chức Tổng trấn nhưng chưa thể tiến hành ngay được. Phải 10 năm sau khi đủ độ chín về mọi mặt, vua mới thực hiện được việc này qua cuộc cải cách xóa bỏ các đơn vị “Thành” và “Trấn” và chia đặt lại cả nước thành 31 tỉnh.
Theo chính sử Đại Nam thực lục cuộc cải cách này được chia thành hai đợt. Đợt đầu tiên được thực hiện vào năm Tân Mão (1831), vua Minh Mệnh đã cho bãi bỏ tổ chức hành chính ở Bắc thành, chia các trấn từ Quảng Trị trở ra Bắc, thành 18 tỉnh bao gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng.
Đợt thứ hai, thực hiện vào năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mệnh tiếp tục cho bãi bỏ Gia Định thành và chia các trấn, doanh còn lại từ Quảng Nam trở vào Nam, bao gồm 12 tỉnh là Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa, Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên.
Sau hai đợt cải cách, Minh Mệnh đã chia cả nước (từ Kinh đô Huế) thành 31 tỉnh (30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên) trong đó có 10 tỉnh lớn, 10 tỉnh vừa và 10 tỉnh nhỏ.
Không dừng lại ở đó, năm 1834, vua Minh Mệnh chia cả nước thành 3 kỳ gồm Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Trong đó, Bắc kỳ bao gồm 13 tỉnh là: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn Tây, Quảng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định và Ninh Bình. Trung kỳ gồm 1 phủ Thừa Thiên đặt làm Kinh đô và 11 tỉnh là: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Nam kỳ gồm có 6 tỉnh còn gọi là “Nam kỳ lục tỉnh” là: Phiên An, Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và Hà Tiên.
Để tiện cho việc quản lý, vua Minh Mệnh cho gộp 2 hoặc 3 tỉnh làm một hạt và thiết đặt các chức quan coi giữ. Trong đó các hạt bao gồm: Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang); Lạng - Bình (Lạng Sơn - Cao Bằng); Ninh - Thái (Bắc Ninh - Thái Nguyên); Hải - Yên (Hải Dương - Quảng Yên); Định - Yên (Nam Định - Hưng Yên); Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình); An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh); Bình - Trị (Quảng Bình - Quảng Trị); Nam - Ngãi (Quảng Nam - Quảng Ngãi); Bình - Phú (Bình Định - Phú Yên); Thuận - Khánh (Bình Thuận - Khánh Hòa); Định - Biên (Gia Định - Biên Hòa); Long - Tường (Vĩnh Long - Định Tường); An - Hà (An Giang - Hà Tiên).
Tái hiện cảnh vua Nguyễn ban chiếu chỉ ở Điện Thái Hòa. Nguồn: tracuuquyhoach / Hiếu Trương
Cải tổ lại bộ máy quan lại địa phương
Đồng thời với việc chia tỉnh, chia kỳ, chia hạt, vua Minh Mệnh cho tiến hành cải tổ lại bộ máy quan lại đứng đầu địa phương. Các chức Tổng trấn Bắc thành, Tổng trấn Gia Định thành mặc nhiên bị xóa bỏ. Các chức Trấn thủ, Hiệp trấn và Tham hiệp đứng đầu các trấn trước đây, nay cũng bị bãi bỏ.
Để có người quản lãnh toàn hạt và chuyên trách riêng công vụ từng tỉnh, vua cho đặt chức Tổng đốc và Tuần phủ. Trong đó Tổng đốc lấy các chức Đô thống, Thượng thư, Thống chế sung bổ; Tuần phủ lấy các chức Tham tri, Thị lang sung bổ, ngoài ra còn đặt các chức Bố chính, Án sát, Lãnh binh để phụ trách từng phần công việc tại mỗi tỉnh. Duy Thanh Hóa là tỉnh lớn không gộp với tỉnh khác nhưng vẫn đặt chức Tổng đốc đứng đầu.
Theo quan chế triều Nguyễn, Tổng đốc là chức hàm tương đương với Thượng thư Lục bộ, trật Chánh nhị phẩm có trách nhiệm chuyên hạt một tỉnh và kiêm hạt một tỉnh.
Tuần phủ ở các tỉnh Nam Kỳ thường gọi là Tuần vũ, là chức hàm tương đương với Tham tri Lục bộ, trật Tòng nhị phẩm có trách nhiệm chuyên hạt một tỉnh. Bố chánh trật Chánh tam phẩm chuyên trách các việc thuế khóa, tài chính trong tỉnh. Án sát trật Tòng tam phẩm chuyên giữ việc kiện tụng, hình án trong tỉnh. Lãnh binh trật Tòng tam phẩm trông coi việc binh trong tỉnh.
Ở cấp Phủ vì là cấp trung gian giữa tỉnh và huyện, nên Phủ có thể quản lý một hoặc một số huyện, tùy theo vị trí, diện tích và tầm quan trọng của mỗi phủ mà chia thành các loại gồm: Tối yếu khuyết (địa điểm rất quan trọng, xung yếu, có nhiều công việc nặng nề), yếu khuyết (địa điểm khá trọng yếu, công việc khá nặng), trung khuyết (địa điểm trọng yếu vừa, công việc cũng vừa, không nặng quá không nhẹ quá) và giản khuyết (địa điểm không quan trọng mấy, công việc có ít và giản đơn).
Đứng đầu mỗi Phủ đặt một viên Tri phủ, phủ lớn hoặc quan trọng có thể thêm một viên Đồng Tri phủ. Ngoài ra, có các thuộc viên gồm Lại mục, Bang tá làm Thừa phái để giúp việc Ở cấp Huyện: Cũng giống như Phủ chia thành các loại Tối yếu khuyết, Yếu khuyết, Trung khuyết và Giản khuyết. Đứng đầu huyện có Tri huyện. Đối với những huyện lớn đông dân cư hoặc những nơi xung yếu quan trọng, ngoài Tri huyện có thêm một Huyện thừa phụ trách, bộ máy giúp việc gồm có các Cai hợp, Thủ hợp, Lại mục.
Ở cấp Tổng là đơn vị trung gian giữa huyện và xã. Tổng có thể quản lý vài làng hoặc xã. Mỗi Tổng đặt một Cai tổng (hay Chánh tổng) phụ trách, ngoài ra có một hoặc hai Phó tổng đều do Hội đồng kỳ dịch của các làng cử ra để quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong Tổng.
Ở cấp Xã (thôn) - đơn vị hành chính nhỏ nhất, đặt chức Xã trưởng hay Lý trưởng đứng đầu, một số xã có thể có thôn bên trong do một Thôn trưởng phụ trách. Tùy nơi có thể đặt thành ấp, giáp hay trại, đứng đầu có Ấp trưởng, Giáp trưởng hoặc Cai trại để trông nom công việc trong địa hạt mình quản lý.
Về việc bổ nhiệm quan lại, các viên Tổng đốc, Tuần phủ đứng đầu mỗi tỉnh đến hàng ngũ các viên Tri phủ, Tri huyện đều do nhà vua trực tiếp bổ nhiệm. Từ tổng trở xuống do người dân tự bầu chọn cử ra người đứng đầu, thông thường các cấp tổng, xã ba năm bầu chọn một lần.
Sau cuộc cải cách vào năm 1831 và 1832, hệ thống bộ máy chính quyền địa phương dưới triều vua Minh Mệnh đã được củng cố chặt chẽ và ngày càng hoàn thiện hơn. Bộ máy hành chính này đã có sự tăng cường quản lý, giám sát và hoạt động có hiệu quả hơn so với trước.
Minh Châu
Nguồn Znews : https://znews.vn/vua-minh-menh-to-chuc-lai-bo-may-chinh-quyen-dia-phuong-nhu-the-nao-post1538547.html