Khát vọng đưa TP.HCM trở thành Trung tâm tài chính quốc tế không chỉ là một tầm nhìn kinh tế, mà còn là một chiến lược nâng tầm quốc gia. Với Nghị quyết 222/2025 của Quốc hội và Dự thảo Nghị định của Bộ Tài chính, Việt Nam đã bước đầu mở hành lang pháp lý để xây dựng những khu tài chính mang chuẩn mực quốc tế.
Tuy nhiên, từ ý tưởng đến hiện thực là một chặng đường dài, đòi hỏi tầm nhìn, kỷ luật thực thi và quan trọng nhất là xác lập bản sắc riêng của TP.HCM để không trở thành “bản sao” của bất kỳ trung tâm tài chính nào trên thế giới.
Bản sắc đó chỉ có thể bén rễ vững chắc khi thành phố đóng vai trò hạt nhân của một siêu đô thị gồm TP.HCM, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi dịch vụ tài chính, công nghiệp và logistics cùng vận hành trong một chuỗi giá trị liền mạch. Khu vực này hiện có gần 13,6 triệu dân và chiếm tới 24% GDP cả nước.
Tòa tháp Saigon Marina IFC khánh thành được xem là bước đi đầu tiên trong lộ trình xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP.HCM. Ảnh: Lê Toàn.
Một bước đệm quan trọng đã xuất hiện khi tòa tháp Saigon Marina International Financial Centre (Saigon Marina IFC) chính thức được khánh thành tại số 2 Tôn Đức Thắng, khu Ba Son, TP.HCM vào tháng 8/2025. Những phát biểu của lãnh đạo Chính phủ và Thành phố trong lễ khánh thành đã khẳng định rõ kỳ vọng, đây không chỉ là một tòa nhà hiện đại, mà còn là “nhịp đập mở màn” cho lộ trình trung tâm tài chính quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 222/2025.
Bài học từ các trung tâm tài chính quốc tế
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trung tâm tài chính quốc tế không thể chỉ dựa vào hạ tầng tài chính, mà phải gắn với vị thế đô thị và khu vực xung quanh.
Ví dụ, Singapore thành công nhờ hoạch định sớm, với lộ trình chuyển đổi ngành dịch vụ tài chính. Giai đoạn 2016 - 2020, Singapore đạt tăng trưởng giá trị gia tăng 5,7%/năm (so với mục tiêu 4,3%), tạo 4.100 việc làm chất lượng cao mỗi năm (so với mục tiêu 3.000), và đào tạo lại hơn 86.000 nhân sự. Đây là minh chứng cho một chiến lược dài hơi, gắn liền với hạ tầng hiện đại và pháp lý minh bạch.
Trong khi đó, Hong Kong phát triển thành trung tâm vốn quốc tế nhờ chính sách thuế cạnh tranh và tự do hóa dòng vốn, đồng thời nhờ hạ tầng tích hợp. Tòa tháp IFC gắn liền trung tâm thương mại, khách sạn Four Seasons và ga Airport Express, hình thành một chỉnh thể tài chính - thương mại - đô thị.
Dubai chọn cách xây dựng trung tâm tài chính Dubai International Financial Centre (DIFC) theo mô hình là một khu pháp lý độc lập theo thông luật bằng tiếng Anh, với ưu đãi thuế hấp dẫn. Sau 20 năm, DIFC đã thu hút hơn 500 định chế tài chính quốc tế.
Từ các bài học này, TP.HCM cần hội tụ ba yếu tố bao gồm hành lang pháp lý đặc thù, hạ tầng đô thị tích hợp, và một thị trường đủ lớn khi xây dựng trung tâm tài chính đồng thời khai thác điểm khác biệt chính là TP.HCM là hạt nhân của siêu đô thị, nơi công nghiệp, cảng biển và dịch vụ quốc tế cùng phát triển.
TS. Vũ Thị Hồng Nhung, Giảng viên Kinh tế, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam.
Nền tảng cho trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM
Trong quy hoạch phát triển vùng, TP.HCM đang hình thành một siêu đô thị phía Nam với thị trường tiêu dùng lớn nhất cả nước và là điểm đến của nhiều tập đoàn đa quốc gia.
Bình Dương là trung tâm công nghiệp hàng đầu, hút FDI lớn nhất cả nước, nơi hàng chục nghìn doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu tạo ra nhu cầu khổng lồ về tín dụng thương mại, bảo hiểm, quản lý rủi ro và tài chính chuỗi cung ứng.
Bà Rịa - Vũng Tàu với cụm cảng Cái Mép - Thị Vải, một trong những cảng nước sâu lớn nhất ASEAN, mở ra cơ hội phát triển dịch vụ tài chính hàng hải, bảo hiểm logistics và phái sinh vận tải. Singapore từng thành công bằng cách kết hợp cảng biển với dịch vụ tài chính, và TP.HCM hoàn toàn có thể tái hiện mô hình này.
Đặc biệt, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - cách TP.HCM chỉ vài giờ kết nối đường bộ và đường thủy - bổ sung một trụ cột chiến lược về tài chính nông sản và tài chính xanh. Đây là vùng sản xuất hơn 50% sản lượng lúa gạo, 70% sản lượng thủy sản và 65% trái cây xuất khẩu của Việt Nam, đóng góp khoảng 17 - 18% GDP quốc gia.
Tuy nhiên, sản phẩm phần lớn vẫn xuất khẩu thô, giá trị gia tăng thấp. Nếu kết nối hiệu quả với hệ sinh thái tài chính TP.HCM, gạo, cà phê, tôm, cá tra… có thể được chuẩn hóa thành “tài sản tài chính” thông qua hợp đồng kỳ hạn, cơ chế lưu ký - giám định quốc tế, và giao dịch trên sàn tài chính toàn cầu.
Không chỉ vậy, ĐBSCL còn là điểm nóng khí hậu, ước tính chiếm tới 50% phát thải mêtan từ sản xuất lúa của cả nước. Việc chuyển đổi sang nông nghiệp carbon thấp, phát triển thủy sản tuần hoàn và rừng ngập mặn có thể tạo ra lượng lớn tín chỉ carbon. Khi gắn kết với một sàn giao dịch tín chỉ carbon tại TP.HCM, ĐBSCL không chỉ cung cấp lương thực mà còn trở thành nguồn tài sản xanh và carbon Mekong một mảng tài chính có giá trị chiến lược trong thời kỳ kinh tế xanh.
Trong cấu trúc này, TP.HCM đóng vai trò hạt nhân với chức năng trung tâm dịch vụ, thương mại và đổi mới sáng tạo. Phường Thủ Thiêm có thể trở thành một “Khu phố tài chính ven sông”, kết hợp cao ốc tài chính, khách sạn, trường học quốc tế, tương tự Marina Bay của Singapore.
Chính sự gắn kết này giữa công nghiệp (Bình Dương), cảng biển (Vũng Tàu), nông sản, carbon (ĐBSCL), dịch vụ tài chính (TP.HCM) sẽ tạo nên một hệ sinh thái tài chính đủ lớn và bền vững, biến trung tâm tài chính quốc tế không chỉ thành “dự án biểu tượng” mà thành một trung tâm thực sự có sức sống với bản sắc riêng.
Bản sắc riêng của Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP.HCM cần được định hình từ lợi thế vùng, vừa là trung tâm dịch vụ tài chính, công nghiệp và cảng biển, vừa nằm kề cận vựa nông sản chiến lược của ASEAN. Ảnh: Lê Toàn.
Bản sắc riêng của trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM
TP.HCM không thể trở thành “bản sao” của Singapore, Hong Kong hay Dubai. Bản sắc riêng cần được định hình từ lợi thế vùng, vừa là trung tâm dịch vụ tài chính, công nghiệp và cảng biển, vừa nằm kề cận vựa nông sản chiến lược của ASEAN.
Từ nền tảng này, TP.HCM có thể xây dựng bốn trụ cột đặc thù.
Thứ nhất, tài chính xanh và carbon Mekong. TP.HCM có thể định vị vai trò tiên phong trong việc phát hành trái phiếu xanh, trái phiếu chuyển đổi, đồng thời xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon gắn với các hoạt động giảm phát thải mêtan trong canh tác lúa, nuôi trồng thủy sản tuần hoàn và phát triển rừng ngập mặn (“blue carbon”).
Mô hình này vừa phù hợp với cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam, vừa tạo dựng một thị trường carbon Mekong có sức hút trong khu vực.
Thứ hai, tài chính nông sản và hàng hóa, gắn với xuất xứ Việt Nam. TP.HCM cần đi đầu trong việc xây dựng chỉ số giá theo xuất xứ Việt Nam cho các mặt hàng chiến lược như gạo, cà phê, hồ tiêu, tương tự Chỉ số giá gạo Thái Lan hay Hợp đồng kỳ hạn cà phê trên Sở Giao dịch Hàng hóa ICE.
Các công cụ tài chính như hợp đồng kỳ hạn, cùng với cơ chế lưu ký và giám định quốc tế được đặt tại Thủ Thiêm sẽ giúp nông sản và hàng hóa Việt Nam không chỉ dừng lại ở xuất khẩu truyền thống, mà trở thành “tài sản tài chính” có thể giao dịch toàn cầu.
Thứ ba, tài chính chuỗi cung ứng xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Hệ sinh thái tài chính của TP.HCM có thể kết nối trực tiếp với các doanh nghiệp xuất khẩu tại Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và ĐBSCL thông qua giao diện lập trình ứng dụng tài chính mở, từ đó hỗ trợ thanh toán xuyên biên giới, triển khai thư tín dụng điện tử (LC điện tử) và cung cấp bảo hiểm rủi ro logistics.
Với lợi thế cụm cảng Cái Mép - Thị Vải, đây sẽ là chìa khóa giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tiếp cận hiệu quả hơn với dòng vốn quốc tế.
Thứ tư, Token hóa tài sản thực. Các loại tài sản như kho bãi, hàng hóa tồn, hay trái phiếu năng lượng và hạ tầng có thể được “token hóa”, tức là chuyển đổi thành dạng tài sản số và phát hành, giao dịch trên nền tảng blockchain.
Hoạt động này cần được triển khai trong cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) nghiêm ngặt, đồng thời tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT). Đây là điều kiện quan trọng để vừa bảo vệ an toàn hệ thống tài chính, vừa tạo niềm tin nhằm thu hút nhà đầu tư toàn cầu.
TP.HCM cần tận dụng sức mạnh của siêu đô thị để kiến tạo một hệ sinh thái tài chính toàn diện và bền vững. Ảnh: Lê Toàn.
Bước ra “sân chơi toàn cầu” bằng thương hiệu TP.HCM
Trong hành trình trở thành trung tâm tài chính quốc tế, TP.HCM cần một lộ trình rõ ràng, có khả năng đo lường và thực thi nhất quán.
Giai đoạn ngắn hạn (2025 - 2030) cần củng cố thể chế, mà trọng tâm là xây dựng niềm tin pháp lý.
TP.HCM cần sớm thành lập một cơ quan quản lý trung tâm tài chính quốc tế độc lập, hoạt động minh bạch theo thông lệ quốc tế. Các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực fintech, crypto và token hóa tài sản phải được triển khai để vừa khuyến khích đổi mới, vừa đảm bảo an toàn hệ thống. Đồng thời, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa điện tử” và áp dụng chính sách thuế cạnh tranh sẽ là nền tảng để thu hút nhà đầu tư toàn cầu.
Giai đoạn trung hạn (2030 - 2040) cần đầu tư hạ tầng và nhân lực. Khi nền tảng thể chế đã vững chắc, TP.HCM cần chuyển trọng tâm sang xây dựng hạ tầng vật chất và xã hội. Thủ Thiêm có thể phát triển thành một đô thị tài chính tích hợp, kết nối trực tiếp với hệ thống metro, sân bay Long Thành và cảng Cái Mép - Thị Vải, tạo thành chuỗi liên kết khép kín giữa tài chính, thương mại và logistics.
Song song, Thành phố phải đầu tư mạnh mẽ cho nguồn nhân lực chất lượng cao, học hỏi các chương trình phát triển tài năng và học bổng tài chính của Singapore.
Nếu kiên định với lộ trình ba giai đoạn, từ củng cố thể chế, xây dựng hạ tầng và nhân lực, đến khẳng định thương hiệu quốc tế, TP.HCM hoàn toàn có thể vươn lên trở thành một cực tài chính mới của châu Á.
Quan trọng hơn, việc cải thiện chất lượng sống, từ hệ thống giáo dục quốc tế, dịch vụ y tế hiện đại cho đến môi trường làm việc sẽ là điều kiện tiên quyết để giữ chân chuyên gia toàn cầu. Thực tế cho thấy, tại TP.HCM, Đại học RMIT đã thành công trong việc duy trì đội ngũ chuyên gia quốc tế gắn bó hàng chục năm, nhờ môi trường sống và làm việc thuận lợi. Đây là một minh chứng rõ ràng rằng nếu TP.HCM có chính sách và hạ tầng phù hợp, thành phố hoàn toàn có thể trở thành điểm đến lâu dài của lực lượng nhân tài quốc tế.
Giai đoạn dài hạn (sau 2040) cần khẳng định thương hiệu quốc tế. Ở giai đoạn này, TP.HCM cần bước ra “sân chơi toàn cầu” bằng thương hiệu riêng. Thành phố có thể trở thành điểm đến thường niên của các sự kiện tầm cỡ, tương tự Singapore FinTech Festival, nhưng với dấu ấn khác biệt như gắn với tài chính xanh, tài chính số và chuỗi cung ứng Mekong.
Thương hiệu TP.HCM, một trung tâm tài chính xanh và số của ASEAN không chỉ là khẩu hiệu, mà phải được chứng minh bằng sự hiện diện của các tập đoàn tài chính hàng đầu, sản phẩm tài chính tiên phong và khả năng dẫn dắt các sáng kiến khu vực.
Tóm lại, hành trình trở thành trung tâm tài chính quốc tế là một quá trình dài hạn. TP.HCM cần tận dụng sức mạnh của siêu đô thị, kết hợp dịch vụ tài chính, công nghiệp, cảng biển và tiềm năng nông sản của ĐBSCL để kiến tạo một hệ sinh thái tài chính toàn diện và bền vững.
Nếu kiên định với lộ trình ba giai đoạn, từ củng cố thể chế, xây dựng hạ tầng và nhân lực, đến khẳng định thương hiệu quốc tế, TP.HCM hoàn toàn có thể vươn lên trở thành một cực tài chính mới của châu Á. Quan trọng hơn, trung tâm này sẽ mang bản sắc riêng, phản ánh lợi thế và bối cảnh Việt Nam, đồng thời góp phần đưa đất nước tiến bước mạnh mẽ trên bản đồ tài chính toàn cầu.
TS. Vũ Thị Hồng Nhung, Giảng viên Kinh tế, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam