Trong danh mục 229 doanh nghiệp ngành xây dựng thuộc diện kiểm kê khí nhà kính của Chính phủ, có tới 109 doanh nghiệp sản xuất xi măng với nhiều nhà máy phát thải từ nửa triệu tấn carbon trở lên mỗi năm. Các hướng chuyển đổi xanh đang được thúc đẩy đồng thời: tận dụng nhiệt thừa từ lò nung clinker để phát điện, đồng xử lý chất thải trong lò nung – mô hình kinh tế tuần hoàn giúp giảm phát thải, tiết kiệm nhiên liệu và hạn chế khai thác tài nguyên.
Nhiệt thừa thành điện, giảm hàng trăm ngàn tấn CO₂
Tháng 7 năm nay, Công ty Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh khởi công dự án tận dụng nhiệt khí thải tại nhà máy Xi măng Lam Thạch II, công suất 12 MW. Khi hoàn thành, dự án sẽ sản xuất hơn 84.000 MWh/năm, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu điện của nhà máy và giúp cắt giảm hơn 100.000 tấn CO₂/năm.
Nhà máy xi măng Tân Thắng ở Nghệ An đã đầu tư dự án phát điện từ nhiệt thừa có công suất hơn 8,6 MW, hiện đã tự chủ 1/3 nhu cầu điện năng trong nhà máy, giúp giảm phát thải 40.000 tấn carbon mỗi năm.
Hiện Nhà máy xi măng Lam Thạch (thuộc Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh) nằm trong danh sách 109 cơ sở sản xuất xi măng trên cả nước phải kiểm kê phát thải khí nhà kính của Chính phủ. Theo danh sách thì nhà máy tiêu thụ năng lượng 99.488 TOE hàng năm, tức quy đổi phát thải ước tính 305.422 tấn CO₂/năm (theo hệ số 3,07 tấn CO₂/TOE).
Đây là một trong nhiều dự án của ngành xi măng trong nước đang tăng tốc để kịp yêu cầu của Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng giai đoạn 2021 - 2030 được Thủ tướng phê duyệt trong Quyết định 1266/QĐ-TTg. Theo chiến lược này thì đến cuối năm nay, tất cả dây chuyền công suất từ 2.500 tấn clinker/ngày trở lên phải lắp đặt hệ thống phát điện nhiệt thừa.
Nhiệt thừa là khi nung clinker, khí thải từ lò có nhiệt độ cao (300–400°C), thay vì xả thẳng ra môi trường, lượng khí nóng này được dẫn qua nồi hơi thu hồi nhiệt để tạo ra hơi nước áp suất cao. Hơi nước này quay tuabin để phát điện, giống như nhà máy nhiệt điện nhưng không cần đốt thêm nhiên liệu.
Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho biết có khoảng 60% nhà máy đã vận hành hệ thống này, phần còn lại đang chạy đua tiến độ. Khi 63 dây chuyền hoàn tất, tổng công suất phát điện từ nhiệt thừa toàn ngành xi măng có thể đạt 475 MW, tương đương một nhà máy nhiệt điện cỡ lớn.
Nhưng, giảm phát thải với ngành xi măng không hề đơn giản, mà rất tốn kém. Chẳng hạn các dự án dùng nhiệt thừa phát điện tốn hàng trăm tỉ đồng ở mỗi nhà máy chứ không hề ít. Trên trang web của Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho thấy, để xử lý nhiệt thừa phát điện, xi măng Nghi Sơn ký hợp đồng 557 tỉ đồng với liên danh Anhui Conch Kawasaki Engineering Group; Vicem Hà Tiên triển khai dự án 267 tỉ đồng tại Kiên Lương; Vicem Hải Phòng và Hoàng Thạch cũng đã chọn nhà thầu.
Các nhà máy xi măng vừa nói đều nằm trong nhóm 10 nhà máy xi măng phát thải lớn của ngành xi măng Việt Nam.
Tuần hoàn trong lò nung
Đầu tháng 8 này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 41:2025/BNNMT về đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng sẽ có hiệu lực vào tháng 2 năm tới. Đây là quy chuẩn quy định việc đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, tức cho phép sử dụng lò nung clinker của các nhà máy xi măng để đốt chất thải thay cho nguồn năng lượng khác, nhưng phải đảm bảo an toàn, không vượt chuẩn môi trường.
Điều này có nghĩa các nhà máy xi măng tận dụng nhiệt trên 1.400°C của lò nung clinker để tiêu hủy triệt để nhiều loại chất thải, kể cả chất thải nguy hại như dầu thải, nhựa, cao su, lốp xe… Tro xỉ sau đốt có thể làm nguyên liệu sản xuất clinker.
Mấy năm trước, Nhà máy xi măng Vicem Bút Sơn đã thực hiện phương pháp này, đồng xử lý rác công nghiệp và bùn thải, tỷ lệ nhiên liệu thay thế nhiên liệu hóa thạch tăng từ 8 - 10% lên 21 - 22% chỉ sau một năm, xử lý 92.500 tấn rác năm 2021, giúp giảm 275.149 tấn CO₂ trong giai đoạn 2020 - 2021 và tiết kiệm gần 87 tỉ đồng. Hiện Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) đã triển khai đồng xử lý tại bảy dây chuyền, xử lý hơn 200.000 tấn rác năm 2021 và 276.000 tấn năm 2022.
Hiệp hội Xi măng Việt Nam đặt mục tiêu đến 2030, nhiên liệu thay thế nhiên liệu hóa thạch chiếm 15% và xử lý ít nhất 30% tro bay, chất thải công nghiệp; giai đoạn 2030 - 2050, tỷ lệ nhiên liệu thay thế tăng lên 30%.
Áp lực xanh
Các chuyên gia nhận định, việc kết hợp phát điện từ nhiệt thừa và đồng xử lý chất thải là giải pháp chiến lược hiện nay, đưa công nghiệp xi măng Việt Nam tiến gần hơn chuẩn sản xuất xanh. Tuy nhiên, chi phí nâng cấp lò nung, xử lý khí thải và đầu tư công nghệ vẫn là rào cản không nhỏ, đòi hỏi sự hỗ trợ chính sách và tín dụng xanh.
Một dự án xi măng đang đầu tư chuyển đổi xanh. Nguồn: ximang.vn
Công nghiệp xi măng trong nước có công suất sản xuất 120 -130 triệu tấn mỗi năm, năm ngoái, toàn ngành xi măng tiêu thụ nội địa 62 triệu tấn, xuất khẩu 30 triệu tấn, thu về 1,15 tỉ đô la từ Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Bangladesh, châu Phi. Dù các nhà máy xi măng Việt Nam gần như không có xuất khẩu vào EU để phải chịu áp lực của Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU nhưng EU là “người mở màn” cơ chế thuế carbon biên giới, các thị trường khác (Mỹ, Nhật, Hàn) rất có thể áp dụng tương tự trong tương lai.
Đó là chưa kể thời gian tới, các nước nhập khẩu xi măng lớn của Việt Nam có thể sẽ áp dụng "chuẩn" của CBAM, lúc đó sẽ tác động sẽ rất mạnh đến công nghiệp xi măng trong nước. Ngoài ra, còn áp lực khác là nhà máy xi măng Việt Nam cũng đang đầu tư công nghệ xanh để "giữ cửa" vào EU và tận dụng thương hiệu “sản xuất xanh” ở các thị trường khác, kể cả nội địa.
Nhất Sơn