Khơi dậy tiềm lực của doanh nghiệp tư nhân
Ngày 29/10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về: Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026.
Đại biểu Nguyễn Như So - đoàn Bắc Ninh
Đại biểu Nguyễn Như So - đoàn Bắc Ninh cho biết, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động bởi xung đột thuế quan, Việt Nam vẫn vươn lên như hải đăng kinh tế khu vực, GDP Quý III tăng tới 8,23%, xuất siêu đạt 16,82 tỷ USD, FDI kỷ lục 28,54 tỷ USD, chứng minh cho niềm tin quốc tế vào sức bật của Việt Nam.
Song để biến thành tựu ngắn hạn thành năng lực bền vững, chúng ta cần có một chiến lược phát triển nền kinh tế tư nhân làm động cơ phản lực. Khu vực này là mũi nhọn sáng tạo, lực đẩy của sản xuất và nền tảng tự chủ quốc gia.
Theo đó, đại biểu Quốc hội đoàn Bắc Ninh đề xuất một số giải pháp trọng tâm nhằm khơi dậy tiềm lực của doanh nghiệp tư nhân để đưa Việt Nam tiến vững chắc trên con đường tăng trưởng xanh, độc lập và thịnh vượng.
Cụ thể, cần phải đột phá thực chất cải cách thể chế với trọng tâm là khâu thực thi chính sách, nút thắt của mọi nút thắt trong phát triển kinh tế hiện nay.
Chúng ta không thiếu những chính sách, nhưng thiếu cách thực thi hiệu quả nhiều chủ trương Nghị quyết đúng đắn của Đảng và Quốc hội như: Bộ tứ Nghị quyết 57, 59, 66, 68 của Bộ Chính trị hay Nghị quyết 198.
Đây là những Nghị quyết mở hướng khơi thông nguồn lực. Tuy nhiên, kết quả thực thi lại cho thấy, khoảng cách rất lớn giữa chính sách và đời sống của doanh nghiệp.
Chỉ trong 9 tháng đầu năm 2025, 175.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, con số này phản ánh rõ độ vênh của ý chí chính sách và hiệu quả thực thi.
Theo đại biểu Nguyễn Như So, vấn đề không nằm ở thiết kế chính sách mà nút thắt thực thi, một chính sách tốt nếu thiếu đồng bộ và cơ chế phối hợp, hướng dẫn cụ thể, trách nhiệm cá nhân sẽ nằm lại trên giấy, gói hỗ trợ lãi suất 2% của Nghị quyết 43 là ví dụ điển hình.
Mặc dù, được thiết kế đúng mục tiêu nhưng giải ngân chỉ khoảng 3%, vì quy trình phức tạp, tiêu chí mập mờ, ngân hàng sợ rủi ro, hệ quả của vốn không đến với nền kinh tế thực, doanh nghiệp kiệt quệ, còn chính sách thì coi là không hiệu quả.
Vì vậy, đột phá về thể chế phải bắt đầu từ cải cách thực thi, mỗi chính sách ban hành cần có hướng dẫn chi tiết, thời hạn rõ ràng, tiêu chí định lượng, cơ chế giám sát công khai, phải chịu trách nhiệm cụ thể.
Đồng thời, cần có số hóa toàn bộ quy trình hành chính, đo hiệu quả cải cách bằng trải nghiệm của doanh nghiệp.
Cần tái cấu trúc mạnh mẽ sản xuất
Đại biểu Nguyễn Như So cũng đề nghị tái cơ cấu lại, mạnh mẽ hơn cơ chế vốn, đưa dòng vốn trở lại nền kinh tế thực thay vì cuốn vào những chu kỳ đầu cơ ngắn hạn, không tạo ra giá trị bền vững, thị trường vốn phải trở thành mạch máu của sản xuất.
Không chỉ là sân chơi của đầu cơ, dòng vốn được định hướng chiến lược vào những lĩnh vực sản xuất, chế biến, chế tạo hàng tiêu dùng thiết yếu, công nghệ cao và kinh tế xanh - những trụ cột tạo ra giá trị gia tăng và việc làm ổn định cho đất nước.
Chính phủ cần phát triển các kênh dẫn vốn dài hạn như quỹ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, thị trường vốn mạo hiểm, nơi các quỹ đầu tư chấp thuận rủi ro để tài trợ cho đổi mới công nghệ, khởi nghiệp và sáng tạo, sản xuất giá trị cao, giảm phụ thuộc vào tín dụng ngắn hạn của ngân hàng.
Đồng thời, thiết lập một cơ chế tái cấp vốn ưu đãi 2-5% cho các dự án đổi mới công nghệ, sản xuất xanh, chuyển đổi số, qua đó giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn rẻ, đầu tư cho năng suất và giá trị dài hạn.
Song song đó, cần ưu tiên miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ 4.0, năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn.
Đây không chỉ là chính sách hỗ trợ tài chính mà còn là đòn bẩy chuyển hướng dòng vốn từ đầu cơ sang sáng tạo, gắn lợi ích của doanh nghiệp với tăng trưởng bền vững và trách nhiệm môi trường.
Mặt khác, cần tái cấu trúc mạnh mẽ sản xuất và khâu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng nội địa, coi đây là nhiệm vụ chiến lược để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ lan rộng và thương mại toàn cầu thu hẹp.
Việt Nam không chỉ tiếp tục dựa vào mở rộng quy mô xuất khẩu mà phải chuyển trọng tâm sang làm tăng hàm lượng giá trị trong nước. Hiện tỷ lệ nội địa hóa mới đạt 36,6%, thấp hơn đáng kể một số quốc gia, khiến Việt Nam dễ bị lệ thuộc hoặc rơi vào vai trò công xưởng trung chuyển, khó đáp ứng được tiêu chí FTA, đối mặt với nguy cơ bị áp thuế cao.
Vì vậy, cần ưu tiên hình thành những lực lượng doanh nghiệp nội địa đủ sức, quy mô và làm trụ cột cho nền kinh tế. Chính sách hỗ trợ tập trung tăng tỷ lệ nội địa hóa cho sản xuất, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đào tạo năng lực phát triển và thiết kế, chế tạo trong nước trong bối cảnh thu hút FDI, cần quy định rõ cam kết nội địa, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
"FDI phải là chất xúc tác cho năng lực sản xuất trong nước, nâng cao giá trị Việt Nam, giúp doanh nghiệp Việt Nam vươn lên làm chủ các khâu giá trị trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nền tảng cho một nền kinh tế tự chủ, bền vững" - đại biểu Nguyễn Như So cho hay.
Ngoài ra, cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, coi trí tuệ Việt Nam là lợi thế cạnh tranh cốt lõi trong kỷ nguyên công nghệ.
Theo đại biểu Nguyễn Như So - đoàn Bắc Ninh, đột phá về thể chế phải bắt đầu từ cải cách thực thi, mỗi chính sách ban hành cần có hướng dẫn chi tiết, thời hạn rõ ràng, tiêu chí định lượng, cơ chế giám sát công khai...
Quỳnh Nga