Đào tạo cử nhân luật: Trường chuyên hay đa ngành?

Đào tạo cử nhân luật: Trường chuyên hay đa ngành?
3 giờ trướcBài gốc
Hai ngày qua, định hướng về đào tạo cử nhân luật trong phát biểu của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Hòa Bình nhận được nhiều sự quan tâm.
Với những ý kiến thể hiện quan điểm “xóa bỏ” hoặc “thu hẹp” các chương trình đào tạo luật tại các trường ĐH không chuyên được đưa ra với lập luận chính là nhằm chấn chỉnh chất lượng, loại bỏ tình trạng mở ngành tràn lan, thiếu đội ngũ, thiếu chuẩn mực, gây thiệt hại cho người học và xã hội.
Tuy nhiên, để đưa ra quyết sách đúng đắn, vấn đề này cần được nhìn từ nhiều chiều, bởi việc đóng hoặc dừng ngành đào tạo ĐH không chỉ mang tính kỹ thuật mà còn tác động sâu rộng đến chiến lược nhân lực quốc gia, đến hệ sinh thái pháp luật và đến chính sách phát triển xã hội thượng tôn pháp luật.
Chuyên - không chuyên
Trước hết cần khẳng định khái niệm “trường không chuyên về luật” hiện chưa được pháp luật hóa. Trong bối cảnh tự chủ ĐH, nhiều trường vận hành theo mô hình đa ngành; nhiều khoa luật ở trường đa ngành vẫn đạt kiểm định, có đội ngũ chuyên môn ổn và đầu ra tốt.
Ngay cả những trường được gọi là “trường chuyên” về luật cũng không còn thuần túy chuyên ngành theo nghĩa truyền thống.
Sinh viên ngành luật trên giảng đường. Ảnh: PHẠM ANH
Mô hình ĐH hiện đại hướng đến đa ngành, liên ngành để tăng khả năng sống còn, mở rộng tuyển sinh, đa dạng hóa người học và bắt kịp xu hướng thế giới. Vì vậy, nếu gom chuyên ngành lại đi ngược xu thế phát triển ĐH hiện đại.
Lĩnh vực y khoa có thể áp dụng chuyên ngành vì tính đặc thù nghề nghiệp. Nhưng với ngành luật hay kinh tế, mô hình đa ngành mang lại nhiều lợi thế: Linh hoạt tổ chức, hiệu quả tài chính, khả năng xã hội hóa tốt và mức độ cạnh tranh tự nhiên cao hơn.
Ngược lại, nếu xây dựng bộ máy cồng kềnh chỉ để dạy một ngành duy nhất như luật thì rất khó đạt hiệu quả, khó thu hút người học và cuối cùng lại phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Hiện nay đang tồn tại hai mô hình đào tạo luật: Trường luật nằm trong trường ĐH hoặc khoa luật thuộc trường đa ngành. Nếu xét đúng nghĩa “trường chuyên về luật” thì ở Việt Nam gần như không có mô hình thuần túy như vậy. Ngay cả Trường ĐH Luật TP.HCM, vốn được xem là trường luật tiêu biểu hiện cũng có khoa Ngoại ngữ, khoa Quản trị kinh doanh… Điều đó cho thấy chính những đơn vị “chuyên luật” nhất cũng buộc phải phát triển theo hướng đa ngành để phù hợp với nhu cầu thực tế.
Một cơ sở “chuyên ngành về luật” nên được hiểu là khi họ có hệ thống đào tạo bài bản: Bộ phận quản lý đào tạo độc lập, đội ngũ giảng viên luật đầy đủ, chương trình được kiểm định, chuẩn đầu ra rõ ràng, tuyển sinh nghiêm túc và đặc biệt là sinh viên tốt nghiệp được thị trường chấp nhận. Khi những yếu tố này được đáp ứng, dù đơn vị đó thuộc trường đa ngành hay độc lập thì vẫn phải được xem là đào tạo chuyên nghiệp về luật.
Ngược lại, những cơ sở chỉ lập một tổ bộ môn để hợp thức hóa điều kiện mở ngành; không có đơn vị quản lý đào tạo đúng nghĩa, không có đội ngũ cơ hữu đầy đủ, chương trình không kiểm định, cấu trúc đào tạo manh mún, những nơi như vậy mới thật sự là “không chuyên”.
Khi xác định là chuyên hay không chuyên thì cần có các tiêu chí cụ thể. Việc phân biệt theo danh xưng “chuyên” hay “không chuyên” để quyết định đóng hay giữ ngành là không phù hợp.
PGS-TS Lê Minh Hùng, trưởng khoa Luật và Khoa học chính trị Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM.
Nhu cầu xã hội là rất lớn
Không thể phủ nhận việc siết chặt điều kiện đào tạo ngành luật là cần thiết trước thực trạng không ít cơ sở mở ngành quá dễ dãi, tuyển sinh ồ ạt nhưng thiếu hụt giảng viên cơ hữu và cơ sở vật chất yếu kém.
Tuy nhiên, nguyên nhân cốt lõi không đơn thuần là vì có nhiều trường cùng dạy luật mà nằm ở nguồn cung nhân lực chất lượng cao. Trong khi cả nước có gần 100 cơ sở đào tạo luật nhưng mỗi năm chỉ có vài chục tiến sĩ luật ra trường, nhiều giảng viên lớn tuổi nghỉ hưu mà không có lớp kế thừa khiến các trường buộc phải “mượn người” khiến chất lượng có thể không đảm bảo.
Song cũng không thể phủ nhận có nhiều đơn vị dù không mang danh “trường chuyên” nhưng vẫn đào tạo nghiêm túc, kiểm định đầy đủ và có đóng góp thực chất cho thị trường nhân lực pháp lý. Vì vậy, việc rà soát phải hướng tới năng lực thực tế của cơ sở đào tạo chứ không phải tiêu chí hình thức.
Ngoài ra, nhu cầu xã hội về kiến thức pháp luật hiện rất rộng: Không chỉ phục vụ hệ thống tư pháp mà còn cho doanh nghiệp (pháp chế, tuân thủ), ngân hàng... Một hệ sinh thái pháp lý lành mạnh cần phân tầng đào tạo, cung cấp nhân lực cho nhiều phân khúc nghề nghiệp khác nhau. Nếu triệt tiêu cơ học mạng lưới đào tạo, ta sẽ tạo ra nghẽn cổ chai trong cung ứng nhân lực, làm mất cân đối giữa nhu cầu xã hội và nguồn cung đào tạo.
Cần giải pháp dài hạn
Giải pháp hợp lý nên là chuẩn hóa, sàng lọc, nâng chất tái cấu trúc, chứ không phải xóa bỏ. Cụ thể, rà soát theo bộ tiêu chí rõ ràng cả về đội ngũ giảng viên cơ hữu, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất và tỉ lệ việc làm đầu ra; những cơ sở không đạt tối thiểu 50% tiêu chuẩn cần dừng đào tạo ngay; những nơi thiếu nhưng có khả năng bổ sung cần được gia hạn thời gian, để tự khắc phục. Đồng thời, phải áp dụng cơ chế tạm dừng tuyển sinh cho các chương trình thiếu giảng viên cơ hữu; tái cấu trúc những bộ môn manh mún, sáp nhập các đơn vị quá nhỏ, chuyển giao hoặc chấm dứt đào tạo ở nơi thực sự không đủ năng lực. Mọi cơ sở, kể cả những trường lớn và có tiếng, nếu không đạt chuẩn cũng phải dừng tuyển sinh.
Giải quyết bài toán dài hạn yêu cầu phải đầu tư mạnh cho phát triển đội ngũ giảng viên; ưu tiên đào tạo chuyên gia cho các lĩnh vực mới như công nghệ số, kinh tế số, AI... Song song đó, cần siết chặt hệ thống kiểm định và hậu kiểm thường xuyên; tránh tình trạng “siết - thả - siết” theo chu kỳ.
Siết chất lượng là yêu cầu tất yếu nhưng cải cách phải dựa trên tiêu chí, minh bạch và có lộ trình; phải bảo vệ quyền lợi người học, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, đồng thời phát triển đội ngũ chuyên gia đáp ứng nhu cầu thực sự của xã hội. Chỉ khi thực hiện đồng bộ những biện pháp chuẩn hóa, sàng lọc, nâng chất và tái cấu trúc, hệ thống đào tạo luật Việt Nam mới có thể phát triển bền vững, góp phần vào mục tiêu xây dựng xã hội thượng tôn pháp luật và nâng cao năng lực pháp lý quốc gia trong thời kỳ hội nhập.
(*) PGS-TS Lê Minh Hùng hiện là trưởng khoa Luật và Khoa học chính trị Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM
Luật sư VĂN HOAN, Đoàn Luật sư TP.HCM:
Giải pháp tối ưu nên là sử dụng “hàng rào kỹ thuật”
Với quyền tự chủ ĐH, việc mở ngành khá “mở” gây những lo ngại về chất lượng. Tuy nhiên, nếu cấm hoàn toàn việc đào tạo luật ở trường không chuyên, xã hội sẽ mất đi rất nhiều lợi thế quan trọng.
Ngành luật có tính ứng dụng liên ngành cao. Việc kết hợp đào tạo ngành luật trong các trường chuyên về lĩnh vực khác cũng có điểm hay là tạo lợi thế cho người học. Ví dụ, cử nhân luật tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế thì thường sẽ có kiến thức nền về kinh tế thương mại… tốt để phục vụ cho công việc chính là ngành luật.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng đó là quan hệ cung - cầu của thị trường lao động sẽ là “bộ lọc” đào thải những cơ sở đào tạo yếu kém.
Thực tế từ trước đến nay không riêng gì ở Việt Nam mà trên thế giới những trường đa lĩnh vực vẫn đào tạo nhiều ngành nghề khác nhau. Với cách tiếp cận như vậy thì giải pháp tối ưu nên là sử dụng “hàng rào kỹ thuật” trong việc đào tạo bằng các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, nhân sự và quan trọng nhất đó là quản lý chất lượng đào tạo, siết đầu ra. Như vậy, không nhất thiết phải đặt ra tiêu chí trường chuyên hay không chuyên mà chỉ cần đặt ra tiêu chí chất lượng đào tạo là đủ.
***
Luật sư NGUYỄN NGÔ QUANG NHẬT, Đoàn Luật sư TP.HCM:
Ủng hộ việc nâng cao chất lượng đào tạo ngành luật
Thực tế hiện nay cho thấy số lượng cơ sở đào tạo luật tăng nhanh, dẫn đến sự khác biệt lớn về chất lượng tuyển sinh và chất lượng đầu ra. Tuy nhiên, nơi đào tạo là trường chuyên hay trường không chuyên không phải là yếu tố quyết định. Nhiều khoa luật thuộc các trường ĐH vẫn đáp ứng tốt các điều kiện về chương trình, giảng viên và cơ sở vật chất, qua đó bảo đảm chất lượng đào tạo.
Nếu không cho các trường không chuyên đào tạo cử nhân luật có thể dẫn đến hạn chế đa dạng nguồn nhân lực và cơ hội giáo dục. Trong khi vấn đề chủ yếu ở năng lực của đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo và hệ thống kiểm định.
Vì vậy, tôi cho rằng cần rà soát toàn diện, đánh giá độc lập, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường và chắt lọc các cơ sở đào tạo luật bằng tiêu chuẩn chất lượng thống nhất, minh bạch. Mục tiêu là giữ lại những cơ sở đào tạo luật thực sự đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực pháp lý chất lượng cao.
PGS-TS LÊ MINH HÙNG (*)
Nguồn PLO : https://plo.vn/dao-tao-cu-nhan-luat-truong-chuyen-hay-da-nganh-post883808.html