Ðội ngũ giảng viên đa số nghỉ hưu
Cả nước có khoảng 36 cơ sở giáo dục ĐH tổ chức đào tạo y khoa (bác sĩ đa khoa, bác sĩ y học cổ truyền). Trong đó, có 18 trường công lập, còn lại ngoài công lập. Khu vực phía Bắc tập trung nhiều trường ĐH công lập đào tạo y khoa, khu vực phía Nam tập trung nhiều trường ĐH tư thục đa ngành.
Phần lớn các trường công lập đào tạo y khoa đều là các trường đơn ngành (chỉ tập trung đào tạo nhóm ngành liên quan đến sức khỏe). Ngoài công lập, y khoa chỉ là một ngành học trong trường đa ngành. Duy nhất có 2 trường ngoài công lập đào tạo đơn ngành sức khỏe là Trường ĐH Phan Châu Trinh và Trường ĐH Buôn Ma Thuột.
Sinh viên trường y lựa chọn ngành học bác sĩ nội trú năm 2025. Ảnh: NGHIÊM HUÊ
Có thể thấy, thị trường đào tạo y khoa tại Việt Nam thời gian gần đây khá sôi động, đa dạng với sự tham gia tới 50% số lượng trường tư thục. Trường ĐH tư thục đầu tiên đào tạo y khoa là Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội.
Sau đó, hàng loạt trường đăng kí mở ngành đào tạo như Trường ĐH Phenikaa, Trường ĐH Đại Nam, Trường ĐH Hòa Bình, Trường ĐH Duy Tân, Trường ĐH Tân Tạo, Trường ĐH Vinuni…
Các yêu cầu, điều kiện để mở ngành đào tạo khối ngành sức khỏe theo quy định tại thông tư số 12 của Bộ GD&ĐT và thông tư 02 có tính đến đặc thù so với các ngành khác.
Đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe, giảng viên và người hướng dẫn thực hành các môn học, học phần liên quan đến khám, chữa bệnh phải có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, đã hoặc đang làm việc trực tiếp tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ điều kiện là cơ sở thực hành trong đào tạo ngành theo quy định của Chính phủ.
Ngoài yêu cầu về trình độ đội ngũ giảng viên chung, ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe, phải đáp ứng các điều kiện như ngành y khoa phải đảm bảo ít nhất 15 tiến sĩ của các môn chính như y sinh, nội khoa, ngoại khoa…
Tuy nhiên, những điều kiện này mới chỉ ràng buộc về số lượng và trình độ. Nhưng nếu bóc tách sâu hơn, bức tranh đào tạo y khoa tại các trường ĐH của Việt Nam đa sắc màu, đủ số lượng nhưng chất lượng cần đặt dấu hỏi.
Đối với các trường công lập, đội ngũ giảng viên y khoa đều đang trong độ tuổi lao động với trình độ tiến sĩ, PGS, GS. Một số trường tư thục đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, PGS, GS đều đã nghỉ hưu. Ví dụ, ngành y khoa theo thông tin 3 công khai trên trang điện tử của Trường ĐH Hòa Bình, năm 2024, có 9 PGS sinh năm từ 1946-1962; có 2 GS sinh năm 1940 và 1944; 9 tiến sĩ sinh từ năm 1954-1967.
Có thể nói, trong số 30 giảng viên/cán bộ của ngành y khoa, Trường ĐH Hòa Bình, số người đang trong tuổi lao động đếm trên đầu ngón tay.
Tại Trường ĐH Đại Nam, phóng viên chỉ tìm được thông tin 3 công khai năm học 2023-2024. Trong đó ngành y khoa có 28 cán bộ/giảng viên với 5 PGS sinh từ năm 1948-1962; có 5/6 tiến sĩ sinh từ năm 1952-1963 (đã nghỉ hưu); có 3 bác sĩ chuyên khoa II, ở tuổi từ 62-77 tuổi. Số còn trong độ tuổi lao động là thạc sĩ hoặc ĐH.
Theo khảo sát của Tiền Phong, thông tin giảng viên cơ hữu trên trang tin điện tử của Trường ĐH Thành Đông, cập nhật đến năm học 2024-2025 cho thấy, ngành y học cổ truyền có 15 giảng viên. Trong đó, 2/3 PGS sinh năm 1942, 1944; có 8 tiến sĩ, người cao tuổi nhất sinh năm 1940, ít tuổi nhất sinh năm 1957.
Một chuyên gia đặt câu hỏi, sử dụng đội ngũ giảng viên phần lớn đã nghỉ hưu, việc đảm bảo thời gian giảng dạy của những trường này như thế nào? Dù nghỉ hưu nhưng họ vẫn làm việc 40 giờ/tuần.
Siết từ gốc
GS.TS Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Y Dược TPHCM đồng tình với quan điểm của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Hòa Bình về chủ trương siết chặt đào tạo những ngành đặc thù, trong đó có ngành y khoa. GS. Diệp Tuấn cho rằng, khi số lượng trường được mở ngành quá nhiều nhưng không ít cơ sở chưa đảm bảo chất lượng. Tình trạng này bắt nguồn từ việc cấp phép mở ngành chưa đủ chặt chẽ.
Ông Tuấn đề xuất, việc mở ngành đào tạo bác sĩ phải được siết chặt ở mức cao nhất. Ở nhiều quốc gia, cơ quan quản lí yêu cầu kiểm định chương trình trước khi cấp phép. Việt Nam đang làm ngược quy trình, cho phép mở ngành, đào tạo xong một khóa mới kiểm định. Điều này khiến chất lượng khó được đảm bảo ngay từ đầu.
GS.TS Trần Diệp Tuấn- Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Y Dược TPHCM
Bên cạnh đó, đội ngũ kiểm định phải là những người am hiểu sâu sắc về đào tạo y khoa. Việc thẩm định mở ngành, theo ông, phải đặc biệt nghiêm ngặt vì đào tạo bác sĩ không giống bất kì ngành nghề nào khác. Việc mở ngành dựa theo tiêu chí chung của các lĩnh vực khác là không phù hợp.
Thực tế mở ngành y ở nhiều cơ sở hiện nay chủ yếu dựa vào việc kí hợp đồng với bác sĩ tại các bệnh viện. GS. Trần Diệp Tuấn khẳng định, cách làm này làm sai lệch bản chất đào tạo y khoa. Bệnh viện là nơi thực hành, các bác sĩ giảng dạy thực hành quan trọng.
Tuy nhiên, giảng dạy y học cần đội ngũ giảng viên ĐH để xây dựng nền tảng cơ sở lí luận khoa học vững chắc và khả năng định hướng chuyên môn cho sinh viên. Theo GS. Tuấn, bác sĩ bệnh viện là một cấu phần quan trọng trong đào tạo, nhưng không thể thay thế vai trò giảng viên trường ĐH.
Ông nêu quan điểm, muốn mở ngành y bắt buộc phải có bệnh viện thực hành và đội ngũ giảng viên cơ hữu đủ chuẩn. Cần đánh giá, nhìn nhận thực trạng hiện nay nhiều trường đã và đang đào tạo ngành y nhưng đã thực sự chuẩn hay chưa.
Trường ÐH Y Hà Nội có 834 giảng viên làm việc toàn thời gian. Tỉ lệ giảng viên cơ hữu trên 97%; hơn 48% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Tại Hà Nội, trường có 1 bệnh viện ở 3 cơ sở phục vụ công tác đào tạo và khám chữa bệnh (trụ sở chính, cơ sở Hoàng Mai, cơ sở Cầu Giấy), cùng với một số cơ sở phục vụ đào tạo như tại Tăng Bạt Hổ, Lý Thường Kiệt, Lê Văn Thiêm.
Trường có 1 phân hiệu tại Thanh Hóa. Trường ÐH Y Dược (ÐH Quốc gia Hà Nội) thành lập được 5 năm (tiền thân là khoa Y dược, ÐH Quốc gia Hà Nội), có 1 bệnh viện với 2 cơ sở tổng 800 giường (cơ sở Linh Ðường, cơ sở Nguyễn Quý Ðức).
Năm 2022, Trường ÐH Phenikaa (nay là ÐH Phenikaa) tuyển sinh khóa đầu tiên ngành y khoa. Ðến nay, khoa Y đã phát triển thành trường Y thuộc ÐH Phenikaa với 1 bệnh viện 750 giường. Trường có bệnh viện mô phỏng, phần mềm thực tế ảo, bàn giải phẫu tương tác 3D…
Tại hội thảo đột phá phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực do Bộ Y tế vừa tổ chức, TS. Nguyễn Ngô Quang, Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) cho biết, khoảng 50% cơ sở đào tạo về y khoa chưa cập nhật đào tạo bác sĩ theo chuẩn đầu ra của Bộ Y tế, khiến bác sĩ trẻ có nguy cơ không được cấp chứng chỉ hành nghề.
Ông Quang cho biết, từ năm 2027, Bộ Y tế sẽ có kì thi quốc gia đánh giá năng lực của các bác sĩ đa khoa sau tốt nghiệp ĐH, là cơ sở cấp chứng chỉ hành nghề. Các năm tiếp theo sẽ đánh giá năng lực với các bác sĩ chuyên khoa răng-hàm-mặt, y học cổ truyền và dự phòng.
Thực tế này khiến các sinh viên y sau tốt nghiệp có nguy cơ rất cao không qua được dự thi đánh giá năng lực quốc gia, vì vậy không được cấp chứng chỉ hành nghề. Khi đó, học bác sĩ nhưng nguy cơ là phải làm nghề khác.
Hiện nay một số trường ĐH tư thục đã có hồ sơ gửi Bộ GD&ĐT, Bộ Y tế đăng kí mở ngành y khoa và chờ kết quả thẩm tra, xác minh các điều kiện đảm bảo từ 2 bộ.
Nhiều băn khoăn
Trong khi cơ quan quản lý cho rằng việc siết chặt điều kiện mở ngành là cần thiết để đảm bảo chất lượng ở các lĩnh vực đòi hỏi chuẩn nghề nghiệp đặc thù thì một số chuyên gia bày tỏ lo ngại quy định này có thể đi ngược xu hướng đào tạo hiện đại và làm thu hẹp cơ hội phát triển nhân lực cho xã hội.
Trong những ngày qua, đề xuất “chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ, trường luật mới được đào tạo cử nhân luật” gây nhiều tranh luận trong giới giáo dục đại học. Sự việc xuất phát từ phiên thảo luận về hai chương trình mục tiêu quốc gia liên quan giáo dục và y tế ngày 25/11.
Tại phiên thảo luận trên, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình nêu rõ chủ trương không cho phép các trường đại học không chuyên đào tạo những ngành đặc thù, nhằm bảo đảm chất lượng đầu ra.
PGS.TS Thái Bá Cần – Hiệu trưởng Trường ĐH Gia Định
Phó Thủ tướng cho biết hiện có khoảng 90 cơ sở giáo dục có khoa luật nhưng tới đây chỉ trường luật mới được đào tạo cử nhân luật. Các trường khác chỉ được dạy luật như học phần phối hợp. Tương tự, với ngành y, chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ, tránh tình trạng mở ngành ồ ạt nhưng thiếu bệnh viện thực hành và giảng viên lâm sàng.
Theo Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình, y khoa là ngành đòi hỏi chuẩn đầu ra đặc biệt cao, bắt buộc gắn với bệnh viện thực hành, đội ngũ giảng viên chuyên sâu và hệ thống kiểm định độc lập. Hiện cả nước có 34 trường đào tạo ngành y, với mức đầu tư và chất lượng không đồng đều.
“Chuẩn hóa điều kiện mở ngành là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm chất lượng nhân lực y tế trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe tăng nhanh” - Phó thủ tướng khẳng định.
“Siết là đúng, nhưng...”
PGS.TS Thái Bá Cần - Hiệu trưởng ĐH Gia Định bày tỏ băn khoăn trước việc giới hạn đào tạo chỉ ở trường chuyên. PGS Thái Bá Cần cho rằng, xu hướng của thế giới là đại học đa ngành, liên kết, liên lĩnh vực chứ không trở lại mô hình đơn ngành như trước. “Chưa có nghiên cứu nào khẳng định đào tạo đa ngành là sai. Nếu trường đủ năng lực, đủ đầu tư thì không nên bị ‘cấm cửa’ chỉ vì tên gọi” - ông Cần nói.
ĐH Y Dược TPHCM – nơi được đánh giá là cơ sở đào tạo khối ngành sức khỏe hàng đầu cả nước
“Chuẩn hóa điều kiện mở ngành là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm chất lượng nhân lực y tế trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe tăng nhanh”. Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình
PGS Cần cho rằng: “Nhu cầu nhân lực ngành y - luật đang tăng nhanh, đặc biệt trong mô hình bác sĩ gia đình, phòng khám tư, tư vấn pháp lý doanh nghiệp… Nếu siết theo hướng thu hẹp cơ sở đào tạo, thị trường có thể thiếu nhân lực trong thời gian tới. Giải pháp đúng đắn là siết vào tiêu chuẩn chất lượng: giảng viên - cơ sở vật chất - phòng thực hành - kiểm định - chuẩn đầu ra..., thay vì siết theo mô hình trường”.
Đồng quan điểm, nhiều chuyên gia cho rằng đào tạo bác sĩ và cử nhân luật không thể dễ dãi nhưng cách siết cần dựa trên năng lực thực tế, không thể “đóng cửa” theo tên trường. Một trường đa ngành nhưng đầu tư bài bản, đáp ứng chuẩn quốc tế thì phải được đào tạo.
Ngược lại, một trường mang tên “y” nhưng không đạt chuẩn thì phải dừng. Giáo dục ĐH hiện đại không đánh giá qua biển hiệu mà đánh giá bằng chuẩn chất lượng, hệ thống kiểm định và năng lực đào tạo thực chất.
Nghiêm Huê - Nguyễn Dũng