Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Hànôịmới đã có cuộc trao đổi với Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan - người có nhiều năm gắn bó với nông nghiệp, nông thôn, nông dân...
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan. Ảnh: Phan Anh
Đất bãi ven sông là kho báu
- Thưa Phó Chủ tịch Quốc hội, đồng chí từng ví đất bãi ven sông như một “tour du lịch” với nhiều điểm dừng thú vị. Vậy, giá trị cốt lõi của vùng đất bãi Hà Nội cần được ứng xử ra sao?
- Nếu hình dung đất bãi như hành trình khám phá thì mỗi đoạn bãi sông là điểm dừng với sắc thái riêng. Có nơi là cánh đồng ngô, vườn chuối nuôi sống người dân; có nơi lại là không gian sinh thái để hít thở, thư giãn, cân bằng nhịp sống đô thị; cũng có đoạn đóng vai trò phòng hộ, bảo vệ đê điều và an toàn cho cả Thủ đô...
Với khu vực nội đô, đất bãi trải dọc khu vực phường Hồng Hà, nằm ngay cạnh những khu phố đông đúc, nhà cao tầng san sát, càng trở nên quý giá. Nó giống như “lá phổi xanh”, giúp dịu sự khô cứng, ồn ào của đô thị. Ở đây, nên ưu tiên phát triển công viên ven sông, không gian công cộng, hoạt động văn hóa - du lịch cộng đồng để vừa bảo tồn cảnh quan, vừa trả lại cho người dân quyền tiếp cận dòng sông.
Còn tại vùng đất bãi ngoại thành vốn là nơi sản xuất nông nghiệp trọng yếu kết hợp trồng trọt, chăn nuôi, phát triển làng nghề; đây cũng là vùng đất giàu tiềm năng để phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp trải nghiệm gắn với du lịch. Nếu tổ chức tốt, ngoại thành hoàn toàn có thể biến đất bãi thành “vành đai xanh”, vừa tạo sinh kế, vừa hỗ trợ nội đô trong việc điều hòa khí hậu, cung cấp thực phẩm an toàn.
Đất bãi ven sông là kho báu, nhưng kho báu chỉ có giá trị khi ta biết trân trọng và ứng xử minh triết: Nội đô cần bãi sông để “thở” và đẹp hơn; ngoại thành cần bãi sông để sống và làm giàu. Dù ở đâu cũng phải có tầm nhìn dung hòa, kết nối lợi ích để đất bãi trở thành nguồn lực, chứ không phải điểm nghẽn phát triển.
- Cụ thể hóa Luật Thủ đô năm 2024, Nghị quyết số 21/2025/NQ-HĐND của HĐND thành phố được coi là bước đột phá trong khai thác đất bãi; nhưng khoảng cách từ nghị quyết đến thực tiễn vẫn là thách thức. Theo đồng chí, rào cản lớn nhất hiện nay là gì?
- Mọi chính sách đều hướng tới lợi ích chung, nhưng khi triển khai sẽ chạm đến nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Với đất bãi, nơi vừa là không gian sinh thái, vừa là vùng sản xuất, lại gắn với an toàn phòng lũ và cư dân lâu đời, thì bất kỳ quyết định nào cũng tạo ra phản ứng khác nhau. Có người muốn giữ đất để canh tác, có người mong chuyển đổi phát triển, cũng có người lo ngại ảnh hưởng môi trường, dòng chảy... Vậy nên rào cản lớn nhất không nằm ở nghị quyết, mà ở việc dung hòa những tiếng nói khác biệt.
Tôi thường nói, xã hội có ba nhóm người trước sự thay đổi: Nhóm ủng hộ, nhóm phản đối và nhóm chần chừ. Nếu chỉ thuyết phục được nhóm ủng hộ mà hai nhóm kia vẫn “lấn cấn” thì chính sách khó lan tỏa. Muốn tạo niềm tin, cần có mô hình điểm - nhỏ thôi nhưng làm đến nơi đến chốn, để người dân trực tiếp thấy lợi ích, thấy sự thay đổi tích cực.
Một trở ngại khác là sự “đứt đoạn” trong triển khai. Từ cấp thành phố xuống đến xã, thôn, tinh thần chính sách đôi khi đã vơi đi một nửa. Có cán bộ cơ sở chưa hiểu hết, dẫn đến thực hiện chưa đúng. Vì vậy, truyền thông chính sách rất quan trọng, không chỉ là tuyên truyền một chiều, mà phải là đối thoại, lắng nghe, điều chỉnh...
Chính sách chỉ thực sự đi vào cuộc sống khi có khung pháp lý rõ ràng, có sự đồng hành của chính quyền các cấp và nhất là niềm tin của người dân.
- Đất bãi ven sông được đánh giá là “kho báu”, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro từ biến đổi khí hậu, lũ lụt và áp lực đô thị hóa. Theo đồng chí, đâu là “lằn ranh” khai thác giá trị, kiểm soát rủi ro để phát triển bền vững?
- Đất bãi ven sông giàu tiềm năng nhờ phù sa màu mỡ, thuận lợi sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là mang giá trị văn hóa, lịch sử của cư dân ven sông. Nó còn là khoảng không gian quý để phát triển nông nghiệp xanh, du lịch sinh thái, tạo vành đai xanh bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, “sông” đồng nghĩa với rủi ro: Dòng chảy thay đổi, xói lở, bồi tụ, thêm vào đó là biến đổi khí hậu, lũ lụt bất thường. Nếu nóng vội khai thác đất bãi như đất đô thị thông thường, hậu quả có thể nặng nề. Bài học quốc tế cho thấy, coi thường quy luật tự nhiên thì thiên tai sẽ lấy đi nhiều hơn cái lợi trước mắt.
Cách tiếp cận cần là “cân bằng kép”: Vừa phát huy tiềm năng, vừa phòng ngừa rủi ro. Quy hoạch phải dựa trên cơ sở khoa học, dự báo biến đổi khí hậu, chứ không chỉ theo nhu cầu trước mắt. Đồng thời, cần thí điểm các mô hình nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn gắn với du lịch cộng đồng. Khi người dân thấy giữ đất bãi để trồng rau sạch, nuôi cá sạch, làm du lịch sinh thái có thu nhập bền vững hơn, họ sẽ đồng lòng.
Đất bãi phải được coi là tài sản công đặc biệt, không chỉ tính bằng kinh tế, mà còn ở giá trị sinh thái, văn hóa, sinh kế lâu dài.
Chính sách chỉ “sống” khi chạm tới người dân
- Việc quản lý đất bãi hiện chịu sự chi phối của nhiều luật, nhiều cấp, dễ dẫn tới chồng chéo, thậm chí lợi ích nhóm... Sự cần thiết có “nhạc trưởng” cho lĩnh vực này như thế nào, thưa đồng chí?
- Quản lý đất bãi hiện nay là “mê cung pháp lý”: Luật Thủ đô, Luật Đất đai, Luật Đê điều, Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng… nhiều khi chồng chéo, mâu thuẫn, làm chậm tiến độ và lỡ cơ hội. Thêm vào đó là tác động của lợi ích nhóm: Chỗ thuận lợi thì nhà đầu tư muốn làm, chỗ khó khăn lại đẩy cho Nhà nước. Vì thế, cần một cơ quan điều phối chuyên trách cho sông Hồng và đất bãi, đóng vai trò “nhạc trưởng” dung hòa giữa các luật, giữa các lợi ích. Cơ quan này không làm thay địa phương, nhưng là đầu mối thống nhất để tránh “mạnh ai nấy làm”. Sông Hồng không chỉ là dòng sông, mà còn là di sản thiên nhiên, văn hóa, không gian phát triển đặc thù. Nếu coi đây là vùng phát triển đặc biệt thì cũng cần cơ chế quản trị đặc biệt.
- Nhiều chính sách đúng và hay, nhưng khi xuống cơ sở lại dễ “rơi rụng”. Đất bãi là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, vậy làm thế nào để chính sách thực sự “thấm” đến người dân, thưa đồng chí?
- Nhiều chính sách nước ta được nghiên cứu kỹ, rất tiến bộ, nhưng khi triển khai lại bị “hao hụt”. Xuống đến xã, thôn, cán bộ cơ sở đôi khi chưa hiểu hết, nên khó truyền đạt đúng tới dân. Đây là “điểm nghẽn” khiến chính sách khó phát huy.
Với đất bãi, liên quan tới nhiều nhóm lợi ích càng cần sự tinh tế. Truyền thông chính sách phải là quá trình lắng nghe, đối thoại, điều chỉnh. Người dân phải thấy lợi ích cụ thể và được tham gia, họ mới đồng hành. Muốn vậy, phải có mô hình điểm để dân tận mắt thấy đất bãi được quy hoạch an toàn, sinh lợi, tạo cảnh quan. Khi niềm tin hình thành, chính sách sẽ có sức lan tỏa và không thể thiếu đội ngũ cán bộ cơ sở - những “cầu nối” trực tiếp, hiệu quả...
- Đồng chí từng nhấn mạnh sự khác biệt giữa tuyên truyền và truyền thông chính sách. Với những quy định mới liên quan đến đất bãi, vai trò của truyền thông chính sách cần được đặt ở đâu để biến khác biệt thành đồng thuận?
- Tuyên truyền thường là một chiều, nói cho dân nghe. Nhưng truyền thông chính sách phải là nhiều chiều: Nhà nước vừa nói, vừa lắng nghe, giải thích, tiếp thu.
Với vấn đề đất bãi ven sông có nhiều giá trị, như: Nông nghiệp, sinh thái, văn hóa, đô thị..., mỗi nhóm xã hội nhìn nhận khác nhau: Nông dân lo mất đất, doanh nghiệp muốn đầu tư, nhà khoa học lo môi trường, an toàn đê điều. Nếu không có truyền thông chính sách, họ dễ mâu thuẫn. Khi truyền thông tốt, các góc nhìn sẽ bổ sung cho nhau, cùng hướng đến lợi ích chung. Truyền thông chính sách không chỉ để giải thích, mà còn để kiến tạo niềm tin. Niềm tin chính là “chất keo” gắn kết các nhóm lợi ích, để chính sách trở thành của người dân, chứ không chỉ của Nhà nước.
- Nếu gửi gắm một thông điệp ngắn gọn về đất bãi ven sông của Hà Nội, đồng chí sẽ nói gì?
- Hãy ứng xử với đất bãi ven sông như một phần tâm hồn Thủ đô. Ở đó không chỉ có đất và nước, mà còn có ký ức, sinh kế, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác gắn bó với dòng sông. Nếu biết trân trọng và khai thác khôn ngoan, dòng sông không chỉ nuôi dưỡng bằng phù sa, mà còn bằng cảm hứng, sự cân bằng cho đô thị. Ngược lại, nếu chỉ nhìn đất bãi theo lợi ích ngắn hạn, ta sẽ đánh mất cơ hội kiến tạo một di sản đô thị nhân văn cho mai sau.
Đất bãi không nên chỉ tính bằng diện tích, giá trị kinh tế, mà cần được coi là “tài sản mềm” - nơi dung hòa thiên nhiên và con người, quá khứ và tương lai. Hà Nội cần chính sách mạnh mẽ, nhưng thấu hiểu sao cho đất bãi trở thành tài sản - di sản chung của nhiều thế hệ.
- Trân trọng cảm ơn đồng chí!
Nhóm phóng viên thực hiện