Khai thác lợi thế để xuất khẩu nông sản hữu cơ sang thị trường Trung Quốc

Khai thác lợi thế để xuất khẩu nông sản hữu cơ sang thị trường Trung Quốc
3 ngày trướcBài gốc
Nông sản đang là mặt hàng Trung Quốc có nhu cầu tiêu thụ nhiều nhất. Hàng năm, nước này chi 230 tỷ USD để nhập khẩu nông sản.
Chi phí kép
Riêng về mặt hàng hữu cơ, Trung Quốc được đánh giá là một trong những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất thế giới và có tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ. Doanh số bán sản phẩm hữu cơ ở Trung Quốc đã vượt quá 100 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 13,8 tỷ USD). Mặc dù con số này bao gồm cả sản phẩm sản xuất trong nước. Điều này cho thấy quy mô lớn của thị trường và tiềm năng xuất khẩu cho HTX, doanh nghiệp Việt.
Tuy nhiên, để các HTX, doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu được nông sản, hàng hóa hữu cơ sang Trung Quốc không phải đơn giản.
Bởi Trung Quốc đã có tiêu chuẩn hữu cơ riêng là GB/T 19630. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với tất cả các sản phẩm được bán trên thị trường Trung Quốc với nhãn mác “hữu cơ”. Tiêu chuẩn này bao gồm các quy định về sản xuất, chế biến, đóng gói, ghi nhãn và quản lý.
Ông Lê Minh Trung, Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Minh Trung (Tây Ninh), cho biết HTX đã đưa mãng cầu tham gia một số chương trình xúc tiến thương mại sang Trung Quốc. Các đối tác, doanh nghiệp Trung Quốc rất thích vì mãng cầu chưa phổ biến ở nước này . Tuy nhiên, họ lại không dám nhập vì HTX mới chỉ có tiêu chuẩn VietGAP.
Theo ông Lê Minh Trung, các cơ quản quản lý của Trung Quốc kiểm tra rất gắt gao về nông sản nhập khẩu. Nếu hàng hóa không đảm bảo các quy định về hồ sơ, giấy tờ thì không thể lưu hành, tiêu thụ, đưa lên các kệ hàng ở Trung Quốc.
Phần lớn diện tích dừa hữu cơ của Việt Nam lại có chứng nhận hữu cơ của EU, Hoa Kỳ.
Trong khi, tiêu chuẩn hữu cơ của Trung Quốc có nhiều điểm khác biệt so với các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến như USDA (Hoa Kỳ) hay EU Organic. Điều này đòi hỏi các HTX và doanh nghiệp Việt Nam phải điều chỉnh quy trình sản xuất, chế biến để đáp ứng các yêu cầu cụ thể của Trung Quốc.
Theo ông Nguyễn Lâm Viên, Công ty Vinamit, Trung Quốc chỉ đánh giá chứng nhận những cây đã có quả và có thể thu hoạch. Những loại cây khác trồng xen trên diện tích đó với cùng một quy trình nhưng chưa cho quả và chưa thể thu hoạch thì chưa được cấp chứng nhận.
Bên cạnh đó, chi phí chứng nhận hàng hóa, nông sản hữu cơ Trung Quốc là chi phí kép. Để xuất khẩu sang Trung Quốc, sản phẩm hữu cơ của Việt Nam thường phải đạt chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 11041) hoặc các tiêu chuẩn quốc tế khác, sau đó lại phải tốn kém thời gian và chi phí để đạt được chứng nhận hữu cơ từ các tổ chức được Trung Quốc phê duyệt.
Cụ thể là Trung Quốc chỉ chấp nhận chứng nhận hữu cơ được cấp bởi các tổ chức chứng nhận đã được phê duyệt bởi Cơ quan Chứng nhận và Công nhận Quốc gia Trung Quốc (CNCA) và được công nhận bởi Dịch vụ Công nhận Quốc gia Trung Quốc (CNAS). Việc này làm tăng đáng kể chi phí đầu vào cho HTX, doanh nghiệp.
Trong khi quy trình chứng nhận hữu cơ Trung Quốc cũng khá phức tạp, đòi hỏi nhiều thủ tục và thời gian, gây khó khăn và đòi hỏi rất nhiều sự chủ động từ phía HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Tất cả hồ sơ, tài liệu liên quan đến chứng nhận và xuất khẩu thường phải được dịch sang tiếng Trung Quốc, gây thêm chi phí và rắc rối.
Hiện, nhu cầu về hàng hóa hữu cơ của Trung Quốc càng tăng thì các sản phẩm hữu cơ từ những quốc gia khác cũng đang cạnh tranh mạnh mẽ tại thị trường Trung Quốc. Việc không đáp ứng được các quy định và tiêu chuẩn sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa hữu cơ Việt Nam.
Tổ chức chuỗi sản xuất chuyên nghiệp
Dù có không ít áp lực khi xuất khẩu các mặt hàng hữu cơ sang Trung Quốc, nhưng thực chất, đây vẫn là một thị trường tiềm năng mà HTX, doanh nghiệp Việt không nên bỏ qua.
Cụ thể là đây là thị trường có dân số đông với hơn 1,4 tỷ người, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm hữu cơ ngày càng tăng tạo ra cơ hội lớn cho các nhà xuất khẩu. Vận chuyển hàng hóa sang Trung Quốc thường có khoảng cách ngắn hơn so với EU và Mỹ, đặc biệt là các tỉnh biên giới phía Bắc. Điều này có thể làm giảm chi phí vận chuyển bằng đường bộ hoặc đường biển (nếu đi các cảng phía Nam Trung Quốc).
Bên cạnh đó, xuất khẩu sang Trung Quốc có thể sử dụng đa dạng phương thức vận chuyển hơn, bao gồm đường bộ (qua các cửa khẩu), đường sắt và đường biển. Đường bộ và đường sắt có thể có chi phí thấp hơn so với vận chuyển bằng container đường biển hoặc đường hàng không sang các thị trường xa hơn.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là người tiêu dùng Trung Quốc và các cơ quan quản lý của nước này ngày càng quan tâm đến nguồn gốc, quy trình sản xuất và chứng nhận hữu cơ của sản phẩm.
Trung Quốc có các quy định nghiêm ngặt về kiểm dịch và an toàn thực phẩm. Việc đáp ứng các yêu cầu này có thể phát sinh thêm chi phí về xét nghiệm, chứng nhận và các biện pháp xử lý đặc biệt.
Theo các chuyên gia, nhiều HTX và doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin đầy đủ và cập nhật về các quy định, tiêu chuẩn và thủ tục xuất khẩu hàng hữu cơ sang Trung Quốc. Trong khi việc hiểu rõ và áp dụng đúng các yêu cầu của tiêu chuẩn hữu cơ Trung Quốc đòi hỏi thời gian và sự đầu tư về kiến thức, điều mà không phải HTX, doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng ngay lập tức.
Trong khi thị trường này, yêu cầu nghiêm ngặt về kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Hải quan và các cơ quan quản lý của Trung Quốc thường có các biện pháp kiểm tra chất lượng rất nghiêm ngặt đối với hàng hóa nhập khẩu, bao gồm cả sản phẩm hữu cơ. Bất kỳ sai sót nào trong quá trình sản xuất, chế biến hoặc ghi nhãn đều có thể dẫn đến việc lô hàng bị từ chối hoặc tiêu hủy, gây thiệt hại nghiêm trọng cho đơn vị xuất khẩu.
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), từ đầu năm 2025 đến nay, xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc sụt giảm nghiêm trọng. Tính đến hết tháng 2, xuất khẩu mặt hàng này giảm gần 80%. Căn nguyên chính của điều này là do từ đầu năm 2025, nước này áp dụng quy định kiểm tra 100% lô hàng sầu riêng nhập khẩu từ Việt Nam, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ dư lượng chất vàng O và cadimi - hai chất gây hại cho sức khỏe. Do đó, nhiều lô hàng không đáp ứng tiêu chuẩn đã bị từ chối nhập khẩu.
Do đó, các HTX, doanh nghiệp Việt cần chú trọng đến quy trình sản xuất, hệ thống truy xuất nguồn gốc của sản phẩm hữu cơ theo chuỗi. Điều này giúp HTX, doanh nghiệp Việt có thể theo dõi và chứng minh nguồn gốc của sản phẩm theo yêu cầu của Trung Quốc. Đây cũng là nền tảng để hàng hóa hữu cơ của Việt nam cạnh tranh được với hàng hữu cơ của các nước khác tại Trung Quốc.
Huyền Trang
Nguồn Vnbusiness : https://vnbusiness.vn//hop-tac-xa/khai-thac-loi-the-de-xuat-khau-nong-san-huu-co-sang-thi-truong-trung-quoc-1105753.html