Kỷ niệm 80 năm Quốc dân Đại hội Tân trào (16/8/1945 - 16/8/2025): Ở chiến khu

Kỷ niệm 80 năm Quốc dân Đại hội Tân trào (16/8/1945 - 16/8/2025): Ở chiến khu
2 giờ trướcBài gốc
Kỳ 1:
Chiến khu vẫy gọi
Hai tiếng “chiến khu” đã vang dội chung quanh tôi từ lâu, và từ lâu, tôi vẫn mong mỏi được lên thăm chiến khu…
14/8/1945 - Hội Văn hóa cứu quốc được năm đại biểu đi dự cuộc Đại hội nghị toàn quốc mở tại chiến khu. Hai người đã đi một chuyến trước, chúng tôi vì dở nhiều công việc, bây giờ mới được lên đường. Trong ba anh em, một người lại phải ở lại, vì tình hình chính trị đang thay đổi từng phút bắt anh phải có mặt luôn luôn ở Hà Nội.
Hai tiếng “chiến khu” đã vang dội chung quanh tôi từ lâu, và từ lâu, tôi vẫn mong mỏi được lên thăm chiến khu, chân được lội qua suối, tay được rẽ lá rừng, mắt được ngắm những chiến sĩ vô danh đã làm cho Pháp - Nhật điêu đứng, và được quan sát giang sơn của anh em Thổ, Mán, trước đây người ta thỉnh thoảng mới nhắc đến một cách khinh thường, nay đã là thành trì của Tự do, nơi tụ hội của tất cả những chiến sĩ yêu nước, cũ và mới.
Minh họa của Thúy Hằng
Mặc dầu sự mong mỏi ấy, chúng tôi đi lòng rất hoang mang. Mấy hôm nay tin Nhật đầu hàng không điều kiện đã lan tràn khắp nơi. Kiều dân Pháp ở Hà Nội ra phố rất đông, vẻ mặt hớn hở. Một vài tên đã giở thói cũ, đánh đập phu xe. Bọn Đại Việt không biết nương tựa vào đâu hốt hoảng tổ chức một cuộc biểu tình bài Pháp thất bại. Trong khi ấy thì các chiến sĩ Việt Minh hoạt động rất ráo riết. Đêm trước, ở khắp các nhà chiếu bóng, các rạp hát ở thành phố và ngoại ô, đội xung phong thành diễn thuyết báo tin Nhật đã hàng và hô hào dân chúng chuẩn bị khởi nghĩa.
Hà Nội sống trong cơn sốt rét. Lúc thì có tin đồn Nhật ở Đông Dương sẽ kháng chiến, mặc dầu mẫu quốc đã hàng; chốc lại có tin chúng sẽ không hành động gì và chỉ đợi Đồng minh đến tước khí giới...
Nhưng chúng vẫn khám xét các đầu phố; ở Cửa Bắc chúng vẫn tới tấp đắp chiến hào và bắt tù binh Pháp khuân đá.
- Thế nào cũng khởi nghĩa, khởi nghĩa đến nơi rồi!
Người ta hồi hộp chờ lệnh Tổng khởi nghĩa như trong lúc oi ả người ta đợi cơn giông tố.
Nơi tôi ở, anh em ra vào không lúc nào ngớt, hết cuộc khai hội này, đến cuộc khai hội khác.
Giữa lúc ấy, chúng tôi sửa soạn lên đường.
Chập tối, chúng tôi tới một cơ quan ở làng... Đến đây, chúng tôi trút bộ quần áo tây, đánh bộ nâu cũ kỹ mang theo trong đẫy. Một chị đồng chí đem cơm lên ép chúng tôi ăn, thân mật bảo: “Các anh phải ăn đi mới được, chúng ta làm việc nhiều, chúng ta càng cần phải ăn. Ngày mai, các anh đi toàn đường tắt, vệ đường không có hàng quán đâu. Chúng ta phải khỏe thì mới diệt được quân phát-xít”.
Đến nay tôi vẫn nhớ lời vừa ân cần, vừa mạnh mẽ của chị phụ nữ mới thoạt trông rất là quê mùa cục mịch.
15/8/1945 - Chúng tôi vượt sông Cái, sang địa hạt tỉnh P.Y. Một việc không may xảy ra làm chúng tôi không bắt mối được với người đưa đường. Đáng nhẽ phải lộn lại, vì đi một mình thì nhất định không tài nào biết lối. Nhưng chúng tôi cũng liều đi, tuy biết việc làm vô nghĩa lý: tiếng gọi của chiến khu tha thiết quá! Đi độ hai mươi cây số, chúng tôi đỗ lại ở một hàng cơm dọc đường, định bụng ăn cơm xong rồi lộn về: đến đây chúng tôi xét ra rằng cuộc phiêu lưu sẽ chẳng đưa đến đâu cả.
Ngồi trong hàng cơm, chúng tôi vừa ngao ngán, vừa phải hết sức dè dặt, vì chó ở đây rất nhiều, và ở một làng gần đây, một Việt gian vừa bị đội danh dự Việt Minh bắn chết.
Chúng tôi đóng vai bác lái nhà quê hơi vụng. Quần áo có cũ kỹ, nhưng cử chỉ, ngôn ngữ thỉnh thoảng lại tố giác chúng tôi, nhất là hai hàm răng trắng, và cái bệnh pha tiếng Pháp trong câu chuyện. Hai anh em bàn với nhau:
- Lộ mất, thế nào cũng phải về, không đi thế này được.
Giữa lúc ấy thì có một người đàn ông, áo rách rưới, răng cải mả, mắt lau láu và gian bước vào trong hàng. Y chào chúng tôi, hút một điếu thuốc lào, hết nhìn trộm chúng tôi, lại nhìn đẫy của chúng tôi, nói vài ba câu chuyện bâng quơ, rồi đột ngột hỏi:
- Em hỏi khí không phải, hai ông đi đâu?
Ngoài chúng tôi ra còn có mấy người khách nữa, nhưng y chỉ chú ý đến chúng tôi. Tôi đồ là có “biến”, giả nhời một cách hàm hồ:
- Chúng tôi đi buôn.
Y cười hoài nghi, lại nhìn trộm hành lý và chúng tôi, lại hút thuốc, lại hỏi đột ngột:
- Em hỏi khí không phải, hai ông có phải ở Hà Nội sang không?
Tôi càng chột dạ, đáp xẵng “không”. Những người khách ngồi bên đều khó chịu hộ chúng tôi, họ nhao nhao gắt con người tò mò và vô lễ; chủ hàng đã định sinh sự. Y trở ra, một lúc lâu lại đến, theo sau có một người đàn bà đã đứng tuổi dong dỏng cao. Người đàn bà đi đi lại lại ngoài đường, hai ba lần nhìn chúng tôi, như người ta nhìn trộm một cô dâu mới về nhà chồng. Bắt gặp ánh mắt chúng tôi, thị tươi cười như quen biết từ lâu, rồi lại nháy người đàn ông kia, cười một cái cười đồng lõa, rồi biến mất. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, tính tiền cơm, định đứng dậy ra khỏi nhà hàng lộn về ngay Hà Nội. Nhưng con người khó chịu kia lại đến gần chúng tôi, mắt vẫn dồn vào chỗ hành lý, rồi há mồm, trố mắt, lại hỏi:
- Em hỏi khí không phải, hai ông có phải người nhà ông Th. không?
Sự xô xát lần này kịch liệt hơn. Chủ hàng đuổi y, nhưng y vẫn cứ trơ trơ, quay lại, lấm lét nhìn chúng tôi, thản nhiên nói tiếp:
- Thế này khí không phải, mời hai ông sang chơi bên hàng bác em, hàng bác em sạch lắm.
Trống ngực tôi dồn mạnh vì sung sướng. Một lần tôi đã được nghe nói đến tên Th., một đồng chí phụ trách miền này. Tôi lại nhớ câu chuyện của một anh nói về một ngôi hàng và một bà chủ quán dong dỏng cao, rất có cảm tình với Việt Minh. Tôi theo chân người đàn ông đến ngôi hàng kia. Vì dụng ý hỏi nên chúng tôi biết rằng, ngôi hàng này chính là nơi anh em vẫn thường đi lại. Chúng tôi lại biết rõ rằng, cách đây mươi hôm, một đoàn tám người có ngủ ở đấy một đêm, trong số ấy có Ch., bí danh của một đồng chí văn hóa đi chuyến trước chúng tôi. Bà chủ cũng cố dè dặt, nhưng thỉnh thoảng buột mồm lại để lộ một vài chi tiết bí mật.
Chúng tôi không ngần ngại gì nữa, ôm đẫy và nón dọn sang.
Hàng quả nhiên sạch sẽ. Bà chủ lăng xăng như người được của. Gian hàng tấp nập vô cùng. Họ tiếp chúng tôi như thượng khách. Người đàn ông, em chồng bà chủ, kết luận một cách đắc thắng:
- Em trông thấy hai ông là biết ngay, em tinh lắm chứ lị.
Người đàn bà vừa làm cơm vừa nói:
- Nghe chú cháu nói tôi đoán ra ngay.
Bà ta chỉ vào con mắt, cười hì hì: mắt này thì phải biết!
Bà ta lại tán hơn em chồng.
Chúng tôi ngủ ở đấy, qua một đêm mưa bão. Tuy có cái vui đã khám phá ra nơi này, nhưng chúng tôi cũng hơi lo: sự bộp chộp của bà chủ và em chồng rất có thể có hại cho phong trào. Nhưng là lo xa đấy thôi, ít ra cũng phải là người trong phong trào như chúng tôi mới tìm được ra manh mối.
16/8/1945 - Sáng sớm chúng tôi bắt được mối với Z.T (1).
Z.T. là hai chữ thông dụng để chỉ những chiến sĩ giữ một công việc tưởng rất bình thường mà rất quan trọng, là đưa người đi chiến khu, hay ở chiến khu về, qua những con đường tắt ngoắt ngoéo. Mỗi Z.T. chỉ biết bí mật một chặng đường của mình, hết chặng ấy, việc hướng đạo lại do một Z.T. khác.
Cùng đi với chúng tôi, có một đoàn sáu người gánh một hòm gỗ lớn. Trời mưa mù mịt. Trên khúc đê cao lầy lội, chỉ còn có chúng tôi đi. Chúng tôi tưởng như đi thám hiểm một miền xa lạ. Một anh vừa nhăn mặt vừa nói:
- Không nói giấu gì anh, gánh thế này khổ hơn đi cày. Nhưng vì việc của anh em ta, nên cứ cố chứ ai chả biết vất vả.
Anh Z.T. thì thu trong mình chiếc súng lục: còn phải qua vài làng có những “con chó” lớn lắm - theo lời anh - rồi mới đến khu chưa được giải phóng hẳn, nhưng đến đấy thì không lo nữa, vì ở đấy dân chúng đã giác ngộ và rất có cảm tình với Việt Minh. Ở một cái chợ đã có người công nhiên bán kiếm, người đó đã phát tài to vì khách sắm kiếm đông đến nỗi bao nhiêu kiếm bỏ ra cũng bán hết ngay tức khắc.
(Còn tiếp)
-------
* (1) Z.T: Viết tắt của chữ “giao thông” với một chút biến cách về chính tả: Gi. đổi thành Z. (GĐ)
* Tên từng kỳ do Báo Đại biểu Nhân dân đặt.
Nguyễn Huy Tưởng
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/ky-niem-80-nam-quoc-dan-dai-hoi-tan-trao-16-8-1945-16-8-2025-o-chien-khu-10383348.html