Nhân dịp Tết Trung thu, đã có những món quà được trao gửi đến trẻ em vùng khó khăn, để mỗi em nhỏ đều có thể vui tết ngắm trăng.
1. Rằm tháng tám, thời điểm "bầu trời trong trẻo, mặt trăng rất tròn, sáng rực rỡ. Ta cảm thấy rất vui thích khi ngắm trăng trong tất cả sự mạnh mẽ và uy nghi của nó, các nhà nho và nghệ sĩ uống rượu cúc và làm thơ ca ngợi vì tinh tú đẹp của ban đêm...” (sách Hội hè lễ tết của người Việt, tác giả Nguyễn Văn Huyên; Đỗ Trọng Quang - Trần Đỉnh dịch, Nxb Thế Giới - 2018). Cũng theo tác giả sách Hội hè lễ tết của người Việt, trong đêm trung thu, người xưa cùng nhau tụ họp để ngắm nhìn, quan sát ánh trăng để dự báo trước tương lai. Nếu trăng sáng vằng vặc, dự báo sẽ có một vụ mùa bội thu. Nếu thấy trăng màu vàng, tằm sẽ nhả nhiều tơ. Mặt khác, nếu mặt trăng chuyển sang màu xanh hay màu lam, thì dự báo sẽ có nạn đói. Trái lại, trăng ngả sang màu vàng, đất nước sẽ thái bình. Đặc biệt, thấy một chiếc mũ phía trên mặt trăng, thế gian sẽ thật sự vui vẻ.
Từ những đêm trung thu quây quần ngắm trăng, bằng kinh nghiệm và trí tưởng tượng phong phú, người xưa còn “đan dệt” nên một thế giới cổ tích huyền ảo.
Rằng trên cung trăng có “ông Tơ, bà Nguyệt” ngồi se chỉ hồng cho đôi lứa nên duyên vợ chồng. Hay chuyện chú Cuội vì hay nói dối mà bị đưa lên cung trăng. Trong đêm trung thu, chỉ về phía ánh trăng vằng vặc trên nền trời đêm, người lớn sẽ kể cho con trẻ nghe chuyện chú Cuội chăn trâu dưới gốc đa trên cung trăng, một mình cô đơn, như một sự nhắc nhở trẻ con không được nói dối.
Một điều thú vị, ánh trăng tỏa rạng và thiên nhiên kỳ ảo, biến đổi không ngừng, nếu quan sát, ở những chiều kích khác nhau, người ta đều thấy trên cung trăng những “sự thật” cổ tích. Rằng nơi đó thực sự có ông Tơ, bà Nguyệt, thực sự có chú Cuội... Hẳn ai đó từng tự hỏi, từ đâu mà người xưa có trí tưởng tượng phong phú để “thêu dệt” nên những chuyện kể thần kỳ.
2. Tết Trung thu có tự bao giờ? Cố học giả Nguyễn Văn Huyên - tác giả sách “Hội hè lễ tết của người Việt” gần 100 năm trước đã đưa ra những kiến giải khá thú vị. Ông cho rằng, ngày Tết Trung thu có nguồn gốc sâu xa từ văn hóa nông nghiệp. Từ xưa, khi sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào thiên nhiên, khi con người còn chưa lý giải được những yếu tố (thời tiết) và một phần bởi chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán (Trung Quốc), tín ngưỡng dân gian tin rằng con rồng có vai trò quan trọng trong việc điều tiết các cơn mưa để có những vụ mùa tươi tốt.
“Hội rồng thực sự là vào trung thu. Nó phải bảo vệ các vụ gặt lớn tháng mười. Đêm rằm tháng tám ta, người ta long trọng rước rồng qua các phố, đi trước là những lá cờ ngũ sắc, những đèn lồng hình hoa quả, tôm cá hay những vật quý... Trong đám rước, đi theo rồng là một con sư tử (hay kỳ lân) chỉ có cái đầu đan bằng tre và phết giấy, nối vào đấy một tấm vải dài màu đỏ. Cái đầu này được một người nâng lên đầu, dùng hai tay lúc lắc nó giả làm một điệu múa sư tử...”. Từ những điệu múa rồng và sư tử sôi động, tươi vui, người xưa gửi gắm mong cầu sẽ có những trận mưa mát lành cho mùa vụ tốt tươi, cuộc sống an ổn, no đủ, phồn vinh.
Qua thời gian, những chiếc bánh nướng được biến tấu với mẫu mã đa dạng, song đây vẫn là phong vị không thể thiếu trong mỗi dịp tết “thưởng” trăng.
Đi qua thời gian, trung thu không dừng lại là ngày lễ hội của mong cầu mùa vụ. Dưới ánh trăng sáng, những sĩ tử theo nghiệp bút nghiên, học hành chuẩn bị bước vào kỳ thi lớn cũng xốn xang ước vọng. “Những con cá chép, soi mình trong ánh trăng dưới đáy nước hoàn toàn trong trẻo vào tiết trung thu, đối với họ cũng trở thành biểu tượng của sự đỗ đạt. Đêm đó, cá chép tìm cách nuốt trăng để đạt đến sự hoàn thiện, hòng có thể “vượt vũ môn”... Dù thế nào, những con cá vượt qua được vũ môn cũng lập tức biến thành rồng. Tương tự vậy, các nho sinh khi vượt qua được những kỳ thi, đỗ đạt, ắt cửa cung vua hay “điện rồng” sẽ mở đón họ...
3. Trung thu là tết của tình thân, của lễ và hội. Sau những nghi thức cúng lễ thần linh, gia tiên gửi gắm mong cầu, ước vọng. Trong đêm trung thu, khi những đám rước đèn đã tan, người ta trở về với gia đình, quây quần bên mâm ngũ quả, bánh trái, và cùng nhau phá cỗ - ngắm trăng.
Một chiếc bàn được bày bên hiên hoặc sân nhà. Ở đó, từ những nguyên liệu (bột), hoa quả, nhờ sự khéo léo, tỉ mẩn của bà, của mẹ, của chị sẽ tạo nên một mâm cỗ - thế giới thần kỳ trong mắt con trẻ.
Là những quả trứng được nhuộm ngũ sắc - mang ý nghĩa mong cầu sự sinh sôi, nảy nở; những quả dừa, quả bưởi tạo tác thành những con thỏ ngoan hiền hay sư tử (kỳ lân) mang sức mạnh; rồi các loại bánh trái được làm đẹp mắt, viên mãn như trăng sáng đêm rằm.
Nếu như tết nguyên đán cổ truyền không thể thiếu bánh chưng, thì trong Tết Trung thu cũng đâu thể thiếu được bánh nướng, bánh dẻo. Đó là những hương vị bánh trung thu không thể thiếu ở đêm hội phá cỗ thưởng trăng.
Từ những nguyên liệu dân dã như bột, đậu, đường, thịt lợn, mỡ... qua những công đoạn chế biến kỳ công, con người với sự khéo léo và sáng tạo đã làm nên chiếc bánh nướng, bánh dẻo có hương vị đặc biệt.
Trong đêm trung thu phá cỗ, ăn một miếng bánh nướng thơm ngọt, nhấp chén trà/chè - phong vị quen thuộc đủ sức “đánh thức” mọi giác quan. Và rồi, chầm chậm ngước nhìn ánh trăng tròn đầy, viên mãn, lòng người lại náo nức những mong cầu...
Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong sách Hội hè lễ tết của người Việt, tác giả Nguyễn Văn Huyên; Đỗ Trọng Quang - Trần Đỉnh dịch, Nxb Thế Giới - 2018.
Bài và ảnh: Khánh Lộc