Nghiên cứu, bổ sung đối tượng chịu thuế đối với một số chất thải

Nghiên cứu, bổ sung đối tượng chịu thuế đối với một số chất thải
4 giờ trướcBài gốc
Sáng 28/10, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày báo cáo của Đoàn Giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
DI DỜI CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT GÂY Ô NHIỄM
Đề cập đến nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh nhấn mạnh về yêu cầu kiểm soát chặt chẽ về môi trường đối với các dự án đầu tư; nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định, đánh giá công nghệ sản xuất để kiểm soát, ngăn chặn hiệu quả việc nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vào Việt Nam; giám sát chặt chẽ, phòng ngừa đối với cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường cao; cơ sở năng lượng nguyên tử, cơ sở hạt nhân.
Nâng cao vai trò của hoạt động kiểm toán môi trường; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường, tập trung đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề; nâng cao chế tài xử lý, bảo đảm tính răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; tập trung xử lý dứt điểm các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp về môi trường ngay từ cơ sở.
Chú trọng thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường khi xảy ra sự cố gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Nghiên cứu định hướng, chủ động xây dựng các khu, cụm công nghiệp; di dời các cơ sở sản xuất trong cụm công nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm, đặc biệt là tại các cụm công nghiệp, làng nghề xen lẫn với khu dân cư tới địa điểm có quy hoạch phù hợp.
Đẩy mạnh điều tra, đánh giá, phân loại, lập và thực hiện kế hoạch cải tạo, phục hồi khu vực đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Triển khai hiệu quả kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với lưu vực sông liên tỉnh, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; tập trung khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường các đoạn sông bị ô nhiễm (các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai, sông Vu Gia-Thu Bồn và một số sông tại các đô thị lớn). Tăng cường thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị, phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ nước thải sinh hoạt tại các đô thị loại I trở lên được thu gom, xử lý đạt khoảng 70%.
KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ KHÍ THẢI PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cũng cho biết, nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030 là kiểm soát chặt chẽ khí thải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; hạn chế phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị lớn; thực hiện lộ trình chuyển đổi xanh phù hợp trong hoạt động giao thông vận tải gắn với đầu tư hạ tầng và các cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội; có biện pháp loại bỏ phương tiện cơ giới không đủ tiêu chuẩn lưu hành gây ô nhiễm môi trường.
Quản lý chặt chẽ chất thải phát sinh từ hoạt động giao thông, xây dựng, đặc biệt tại các đô thị và hoạt động đốt phụ phẩm nông nghiệp.
Phấn đấu đến năm 2030, tại thành phố Hà Nội, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm giảm khoảng 20% so với mức trung bình năm 2024, các thông số chất lượng không khí khác được duy trì, bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; tại các tỉnh, thành phố xung quanh thành phố Hà Nội, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm giảm tối thiểu 10% so với mức trung bình năm 2024; tại TP HCM và các đô thị khác trên toàn quốc, chất lượng không khí được duy trì kiểm soát, không để gia tăng mức độ ô nhiễm.
NGHIÊN CỨU, BỔ SUNG ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ RÁC THẢI
Theo báo cáo của Đoàn giám sát, trong thời gian tới cần tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại bằng việc thực hiện các biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững, giảm phát sinh chất thải; thực hiện nghiêm quy định thu gom, phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại hộ gia đình, cá nhân phù hợp với điều kiện, hạ tầng kỹ thuật của từng địa phương; đẩy mạnh thu hồi các loại chất thải có khả năng tái chế.
Áp dụng công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt tiên tiến, thân thiện môi trường, ưu tiên tái chế, xử lý chất thải kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp. Tập trung cải tạo, nâng cấp và xử lý ô nhiễm môi trường tại các bãi chôn lấp rác thải không hợp vệ sinh, khu vực bị ô nhiễm do rác thải gây ra.
Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị (phường, đặc khu) được thu gom, xử lý đạt 95%, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn (xã) được thu gom, xử lý đạt 85%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng chất thải được thu gom giảm dưới 50%.
Đáng chú ý, thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong thu hồi, tái chế sản phẩm, bao bì thải bỏ; xây dựng, nhân rộng mô hình đặt cọc hoàn trả đối với sản phẩm, bao bì thải bỏ. Nghiên cứu, bổ sung đối tượng chịu thuế đối với một số loại thực phẩm, bao bì, đồ tiêu dùng trong sinh hoạt, chất thải khó tái chế.
Phát triển mạnh ngành công nghiệp tái chế, khuyến khích sử dụng, tiêu thụ sản phẩm từ quá trình xử lý chất thải rắn. Thúc đẩy các mô hình hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên minh tái chế, mô hình liên kết vùng, liên kết đô thị với nông thôn và các mô hình khác nhằm phát triển kinh tế tuần hoàn...
Thiên Tuấn
Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống : https://kienthuc.net.vn/nghien-cuu-bo-sung-doi-tuong-chiu-thue-doi-voi-mot-so-chat-thai-post1580516.html