Nước non biên ải
Cách trung tâm tỉnh Lai Châu khoảng hơn 300 cây số nhưng phải đi hơn một ngày đường, chúng tôi mới lên được Kẻng Mỏ. Đường đi, xe liên tục vượt những cung đường vắt qua vách núi cao ngất của dãy Hoàng Liên Sơn, đúng như người ta vẫn nói: “Vượt núi sương giăng, vượt đèo mây phủ”. Ấy vậy mà Thượng tá Nguyễn Thế Khanh, Chính trị viên Đồn biên phòng Ka Lăng, người dẫn chúng tôi lên Kẻng Mỏ nói, đường đã đi được xe máy là sướng lắm rồi. Chục năm về trước, các anh phải khoác ba lô, cơm nắm đi bộ men suối mới vào được đồn.
Kẻng Mỏ đã hiện ra trước mắt. Con sông Đà như sợi chỉ màu ngọc bích chảy vào đất Việt giữa hai bờ núi cao chót vót chạm mây xanh. Xưa kia những người xuôi bè gỗ qua đây đặt cho nó cái tên “thác rơi chảo”, để lột tả sự nguy hiểm. Mỗi khi qua thác, bè lật dựng đứng, cái chảo nấu ăn đã buộc chặt vào thân bè, mà còn rơi mất...
Tính ra, sông Đà chạm vào lãnh thổ nước ta tại xã Mù Cả cũng thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu nhưng chưa chảy thẳng vào lãnh thổ nước ta mà chạy theo hướng Đông, trở thành biên giới Việt - Trung. Đến Kẻng Mỏ này, sông Đà hợp với dòng Nậm Là (từ trên dãy Hoàng Liên Sơn đổ xuống) rồi ngoặt xuống hướng Đông Nam, chạy dọc theo sườn Tây của dãy Hoàng Liên Sơn, gầm gào, xuyên qua những vách núi đá quanh co để về xuôi.
Từ năm 2009, sau khi Việt Nam và Trung Quốc hoàn thành phân giới, cắm mốc, 273km đường biên của tỉnh Lai Châu được đánh số từ 16 đến 85, trong đó cột mốc số 18 ở Kẻng Mỏ này đặc biệt nhất. Đó là hệ thống cột mốc ba, làm bằng đá hoa cương. Một cột nằm bên địa phận huyện Giang Thành, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), một cột nằm ở xã Ka Lăng và một cột thuộc địa phận xã Mù Cả (huyện Mường Tè). Vì thế, tại đây có tới 2 đồn biên phòng cùng bảo vệ điểm phân định ranh giới Việt - Trung trên sông Đà.
Cán bộ, chiến sĩ Trạm biên phòng Kẻng Mỏ cùng với nhân dân tuần tra bảo vệ biên giới.
Trạm biên phòng Kẻng Mỏ thuộc Đồn biên phòng Ka Lăng được giao nhiệm vụ quản lý cột mốc số 18 cũng đặc biệt không kém. Trạm không có điện lưới quốc gia, sóng điện thoại chập chờn và cách khu dân cư gần nhất độ khoảng gần 30 cây số. Vì hoàn cảnh khó khăn như vậy nên những người lính nơi đây chú trọng tăng gia sản xuất, nuôi bò, dê, trồng rau để đảm bảo hậu cần và một phần hỗ trợ gia đình nghèo trên địa bàn. Theo quy định, trạm Kẻng Mỏ cũng được cấp dấu để đóng vào sổ thông hành cho người dân hai nước có nhu cầu qua lại biên giới nhưng Đại úy Lù Lý Hùng, Trạm trưởng Trạm Biên phòng Kẻng Mỏ cho hay, hàng chục năm nay, con dấu đó chưa đóng bao giờ bởi không có ai qua lại.
Cán bộ, chiến sĩ Trạm biên phòng Kẻng Mỏ cùng với nhân dân bảo vệ vững chắc biên cương, nơi con sông Đà chảy vào đất Việt.
Cán bộ, chiến sĩ ở trạm mỗi người mỗi quê, người quê Mường Tè, người ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Trong đó, Thiếu tá Lê Đức Hiểu, người con của quê lúa Hải Hậu (tỉnh Nam Định) đang dành cả sự nghiệp nhà binh cho vùng biên giới xa xôi. Anh thực hiện nhiệm vụ canh giữ biên cương ở nơi đầu nguồn sông Đà cách vợ con gần nghìn cây số và chẳng mấy khi lễ, Tết về cùng chung vui với gia đình. Mỗi lần nhớ vợ, thương con, anh lại ra đầu nguồn sông Đà ngồi nghĩ: Dù có xa nhau đến cả ngàn cây số nhưng cũng chỉ là “anh ở đầu sông em cuối sông”. Suy nghĩ ấy như một sự kết nối trong tâm tưởng khiến nỗi nhớ nhà trong anh vơi bớt.
Xa xôi cách trở, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn trăm bề nhưng dẫu sao đấy cũng chỉ là những chuyện nhỏ so với nhiệm vụ hàng ngày của người lính biên ải. Thượng tá Nguyễn Thế Khanh chia sẻ, đường biên, cột mốc biên giới trên dãy Hoàng Liên Sơn – nơi được ví như nóc nhà Đông Dương này, nếu không nằm dọc sông suối thì cũng nằm giữa trên những đỉnh núi cao. Vì thế, những chuyến tuần biên thực sự là thử thách vô cùng gian lao, vất vả. Đặc biệt, những cột mốc được xếp vào dạng kỳ quan như cột mốc số 42 trên đỉnh Pu Si Lung thuộc địa phận xã Pa Vệ Sử của huyện Mường Tè. Hay cột mốc 79 thuộc xã Mồ Sì San của huyện Phong Thổ là cột mốc cao nhất trên toàn tuyến biên giới của Việt Nam.
“Những chuyến tuần tra gặp sự cố rơi từ vách núi, lăn xuống sông, xuống suối hay đói lả người phải ăn lá rừng, uống nước suối cầm hơi là chuyện hết sức thường tình”.
Thượng tá Nguyễn Thế Khanh
Ngày đi đêm nghỉ nhưng đêm mùa đông trên dãy Hoàng Liên Sơn nhiều nơi băng tuyết, rét cắt da cắt thịt, đốt bao nhiêu lửa cũng không tài nào ngủ nổi. Anh em vừa run cầm cập vừa động viên nhau cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Gian nan, nguy hiểm đến mức đã có người ngã xuống.
Đồng hành với đồng bào
Dọc theo tuyến đường ngược theo bờ sông Đà lên biên giới Mường Tè bây giờ có khá nhiều bản làng của người La Hủ. Đây là một trong những dân tộc rất ít người được hồi sinh nhờ vào sự chung tay, góp sức của nhân dân khắp mọi miền đất nước. Trên cung đường chênh vênh giữa đất trời chuẩn bị sang xuân, chúng tôi đã được nghe Thượng tá Nguyễn Thế Khanh kể rất nhiều chuyện về Mường Tè thuở trước. Những câu chuyện đều là người thật việc thật và trở thành biểu tượng của tấm lòng người miền xuôi với đồng bào ở cuối trời Tây Bắc này.
Cán bộ, chiến sĩ Trạm biên phòng Kẻng Mỏ tăng gia sản xuất đảm bảo hậu cần.
Đó là chuyện về Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Thọ, người đã cống hiến hết đời trai trẻ dạy đồng bào Hà Nhì, đồng bào La Hủ, tuyên truyền cho đồng bào xuống núi khai hoang làm ruộng nước, đánh đuổi thổ phỉ, xóa bỏ hủ tục. Năm 1961, anh giã từ cõi đời vì một trận sốt rét ác tính ngay trên mảnh đất này khi mới 26 tuổi. Anh mất, nhân dân còn dựng cả tượng đài, đặt tên đồi, tên ruộng là ông Thọ để ghi nhớ công lao. Tiếp nối tấm gương cha anh, các thế hệ cán bộ Biên phòng viết tiếp những câu chuyện giúp đỡ đồng bào Hà Nhì, La Hủ phát triển. Gần đây, Bộ đội biên phòng làm nhà đưa đồng bào La Hủ về định cư, có cuộc sống ổn định. Rồi cán bộ biên phòng xóa mù chữ, nhận các cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về nuôi.
Thực hiện Đề án “Bộ đội Biên phòng Lai Châu tham gia giúp đồng bào La Hủ định canh, định cư, xóa đói, giảm nghèo gắn với bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới”, cán bộ chiến sỹ quân hàm xanh nơi đây đã xây dựng được 130 căn nhà, lập 5 bản mới ở huyện Mường Tè, gồm: Hà Xi (xã Pa Ủ), Là Si (xã Ka Lăng), Là Si (xã Thu Lũm), Tân Biên và Mu Chi (xã Pa Ủ).
Để có được những bản làng La Hủ như thế là cả một cuộc hành trình mấy mươi năm, tốn không biết bao nhiêu công sức, của cải. Xưa, người La Hủ sống du canh du cư trên núi, biệt lập với thế giới bên ngoài nên đứng trước nguy cơ tuyệt diệt, có những thời điểm chỉ còn xấp xỉ ngàn người. Từ năm 2009, Bộ đội Biên phòng bắt đầu công cuộc hồi sinh người La Hủ bằng việc kêu gọi nguồn kinh phí lập bản, xây nhà. Cán bộ Biên phòng vào rừng vận động họ bỏ lều lán về bản, dạy họ trồng lúa nước, chăn nuôi. Ròng rã nhiều năm trời, mặc dù còn lắm gian truân nhưng theo thống kê mới đây, người La Hủ ở Lai Châu đã tăng lên hơn 10 nghìn người...
Viết Hà