Hồi trước lão có chiếc vó bè bên sông Thưa, người làng Chằm gọi lão là ông Cử “vó bè”. Lão đã ngoài bảy mươi nhưng bắp tay còn săn chắc. Vật tay với lão, trai làng còn đổ. Có lẽ do việc kéo vó bè phải dồn sức vào sợi dây thừng to như con rắn để nâng chiếc vó khỏi mặt nước, cá tôm mắc phải lưới sẽ chui tọt vào chiếc giỏ buộc ở đáy vó. Công việc ấy đã mang lại cho lão sự dẻo dai... Như đoán biết được cái nhìn dò hỏi trong mắt tôi, lão Cử nói ngay: “Lão giải nghệ rồi, bây giờ ra đây túc tắc với cái món này”.
Mấy năm đi học đại học, tôi ít ra lều vó bè của lão, thi thoảng về thăm nhà tôi mới đáo qua, thấy ông cháu lão vẫn kẽo kẹt với chiếc vó, cá tôm kiếm được đủ đắp đổi qua ngày. Tôi tạm yên lòng vì con sông Thưa vẫn đủ sức bao bọc cho hai con người đáng thương ấy. Lão Cử góa vợ sớm, một mình gà trống nuôi con. Khi anh Cự, con trai lão lấy vợ, sinh được bé Thơm mới hơn ba tuổi thì tai họa lại bất thần ập xuống nhà lão. Cả hai vợ chồng anh đều thiệt mạng trong một tai nạn ô tô khi đi thăm người bà con trên Thái Nguyên.
Lão Cử chỉ biết trông vào chiếc vó bè để nuôi đứa cháu côi cút. Sáng nào lão cũng đón đường những người đàn bà làng Chằm đi chợ sớm, nhờ bán hộ mớ tôm, mớ cá mới cất được đêm qua rồi mua dùm bơ muối, chai dầu, quả trứng và trăm thứ lặt vặt cần thiết cho cuộc sống hằng ngày.
Lão Cử cũng có một nếp nhà tranh ba gian, hai chái ở làng Chằm nhưng chỉ những ngày tư rằm, mùng một lão mới trở về đây hương khói cho những người đã khuất. Còn thì ông cháu lão gắn bó với chiếc vó bè.
Con bé Thơm nhờ tôm cá, nhờ nước sông Thưa mà lớn lên trắng da thắm thịt, xinh xắn đáng yêu. Không biết bây giờ Thơm đã bằng ngần nào?
Lão Cử thong thả kể:
- Con Thơm giờ đã ra dáng thiếu nữ lắm rồi. Nó theo chúng bạn đi làm công nhân may trên cụm công nghiệp chỗ đầu thị trấn, cuối tuần nó mới đạp xe về thăm ông, cậu Tùng ạ!
Rồi như vẫn thấy sự thắc mắc trong mắt tôi, lão Cử cười buồn:
- Sông Thưa không nuôi nổi ông cháu lão nữa rồi. Tôm cá cứ như trốn biệt đâu mất cả. Nghe nói ở đầu nguồn có những nhà máy gì gì ấy, thải ra thứ nước bẩn làm chết cá, chết cua còn cây lúa thì cứ lụi dần đi như người ốm dở. Những sản vật của ruộng đồng, sông nước mỗi ngày một hao kiệt. Cậu Tùng còn nhớ những mùa soi ếch, mùa đào chạch năm xưa không?
Tôi làm sao có thể quên được những năm thơ ấu ấy. Sau những cơn mưa rào đầu mùa, tiếng ếch râm ran khắp các bờ tre, ruộng lúa, tôi theo lão Cử với ánh đuốc lập lòe như ma trơi đi soi ếch khắp nơi. Rồi những ngày tháng Mười, cánh đồng mới gặt xong còn trơ gốc rạ, đi học về là tôi quăng vội cặp sách vào xó buồng, theo lão Cử đi tìm “mà” chạch. Lão dạy tôi cách nhận biết “mà” chạch khác với “mà” rắn như thế nào. Sau những cuộc đi rạc cẳng trên đồng quê, tôi lại chui vào cái lều vó bè của ông cháu lão mà thưởng thức vị ngon của nồi chạch kho tương ăn với cơm lúa mùa dẻo thơm.
Bao nhiêu năm những sản vật của ruộng đồng và sự hào phóng của con sông Thưa đã đùm bọc, chở che ông cháu lão. Lão Cử chẳng đời nào lại nghĩ tới một ngày phải rời bỏ chiếc vó bè thân thuộc... Tôi đọc thấy sự tiếc nuối trong mắt lão dù lão vẫn cố gượng cười móm mém cho tôi yên lòng nhưng lại không giấu được những ngấn nước rưng rưng nơi khóe mắt...
Nguyễn Hương