Vì sao Thâm Quyến là đặc khu kinh tế thành công nhất của Trung Quốc?

Vì sao Thâm Quyến là đặc khu kinh tế thành công nhất của Trung Quốc?
một giờ trướcBài gốc
Đặc khu kinh tế đặc biệt (SEZ) của Trung Quốc vốn rất đa dạng về quy mô và chức năng. Một số là các khu vực địa lý được lựa chọn, trong đó áp dụng những chính sách và biện pháp đặc biệt nhằm hỗ trợ các mục tiêu kinh tế cụ thể. Một số khác bao gồm khu thương mại tự do, khu công nghiệp, khu đổi mới công nghệ và khu ưu đãi thuế, tạo điều kiện cho thử nghiệm và sáng tạo trên nhiều ngành nghề.
Những đặc khu này đã đóng góp lớn cho sự phát triển của Trung Quốc khi cho phép thử nghiệm cải cách thị trường, trở thành chất xúc tác phân bổ hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước, đồng thời mở rộng cửa thu hút vốn, công nghệ và chuyên môn quản lý quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp và hội nhập sâu hơn vào kinh tế toàn cầu. Những năm gần đây, SEZ quốc gia đóng góp 22% GDP Trung Quốc, thu hút 45% vốn FDI và tạo ra 60% kim ngạch xuất khẩu. Chúng được ước tính đã tạo hơn 30 triệu việc làm, nâng thu nhập của nông dân tham gia vào hoạt động trong khu thêm 30%, đồng thời thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa.
Trung Quốc áp dụng nhiều mô hình quản lý SEZ khác nhau, gồm quản lý hành chính với các chức năng điều hành do cơ quan nhà nước đảm nhiệm, mô hình ủy ban hành chính do chính quyền bổ nhiệm và mô hình quản lý chung giữa đối tác SEZ và cơ quan hành chính của chính phủ.
THẬP NIÊN MỞ CỬA
Kinh nghiệm phát triển SEZ của Trung Quốc được hình thành qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu từ đầu những năm 1980, các cải cách theo hướng thị trường được thử nghiệm tại những SEZ đầu tiên như Thâm Quyến.
Đến giữa những năm 1980, các thành phố ven biển mở cửa như Chương Châu được quy hoạch cho vai trò cửa ngõ giao thương nhằm tận dụng lợi thế địa lý và thúc đẩy phát triển kinh tế. Từ nền tảng đó, chính quyền trung ương và địa phương tiếp tục xây dựng các khu phát triển công nghệ cao vào cuối thập niên 1980 để thu hút vốn, công nghệ và nhân tài quốc tế.
Sang thập niên 1990, trước đà phát triển mạnh của kinh tế Trung Quốc và những thay đổi trong xu hướng toàn cầu, chính phủ nước này đã tạo lập các khu vực mới như Công viên Hợp tác Trung Quốc - Singapore, đồng thời nâng cấp nhiều SEZ có sẵn để gia tăng độ cạnh tranh và nắm bắt cơ hội mới. Từ đầu thế kỷ 21, hàng loạt khu vực phát triển cấp vùng được thành lập nhằm thúc đẩy và định hướng tăng trưởng địa phương.
Đáng chú ý, Thâm Quyến thường là hình mẫu thành công được nhắc tới nhiều nhất. Năm 1978, khu vực sau này trở thành Đặc khu kinh tế Thâm Quyến chỉ có khoảng 100.000 dân. Ngày nay, thành phố đã trở thành đô thị hơn 17 triệu người, chỉ xếp sau Bắc Kinh và Thượng Hải. Trong giai đoạn 1980 - 1984, khi GDP cả nước tăng 10%, vốn đã là con số đáng kể, Thâm Quyến còn tăng tới 58%.
Thâm Quyến xưa và nay
Thành phố hiện là trung tâm tài chính, công nghệ và văn hóa, trở thành hình mẫu mà các nhà quy hoạch đô thị nỗ lực tái hiện trong nhiều thập kỷ. Động lực cho giai đoạn tăng trưởng đầu tiên của Thâm Quyến là rất rõ ràng. Năm 1978, chính phủ Trung Quốc chuyển từ sự lãnh đạo của những nhà chính trị cứng rắn như Mao Trạch Đông và người kế nhiệm ngắn ngủi Hoa Quốc Phong sang Đặng Tiểu Bình - người cởi mở hơn với cải cách và hội nhập.
Như một thử nghiệm đầu tiên, chính phủ chỉ định Thâm Quyến thành đặc khu kinh tế mới, trao cho thành phố quyền tự chủ lớn hơn trong quyết định chính sách kinh tế và tổ chức bộ máy quản lý. Điều này giúp chính quyền địa phương thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phát triển nội địa và cuối cùng xây dựng nên một đô thị nay cùng với Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu tạo thành “Bắc - Thượng - Quảng - Thâm”, nhóm các đô thị hạng nhất của Trung Quốc.
Song song với Thâm Quyến, vào năm 1980 có thêm ba đặc khu khác cũng được trao quy chế này, bao gồm Châu Hải, Sán Đầu và Hạ Môn.
Tất nhiên không đặc khu nào trong nhóm đầu tiên được chọn ngẫu nhiên. Thâm Quyến nằm ngay cạnh Hồng Kông - khi đó giàu có hơn nhiều. Châu Hải giáp Macau, tạo thành một cụm đô thị tại đồng bằng sông Châu Giang, còn Sán Đầu và Hạ Môn nằm trên bờ biển phía Đông để thuận lợi giao thương với Đài Loan.
Ngay trước khi lập SEZ, chính phủ Trung Quốc triển khai một chính sách thử nghiệm mới nhằm thúc đẩy sản xuất tại các thành phố miền Nam. Theo đó, các đô thị ở Quảng Đông, bao gồm Châu Hải và Thâm Quyến, được phép ký thỏa thuận với doanh nghiệp nước ngoài để nhận máy móc, nguyên vật liệu và dịch vụ xuất khẩu để đổi lấy việc sản xuất hàng hóa. Chính sách này được gọi là “sanlaiyibu”. Dù cả Thâm Quyến và Châu Hải đều được hưởng lợi từ chính sách trên, Thâm Quyến may mắn hơn ở nhiều mặt. Kinh tế Macau nhỏ hơn nhiều so với Hồng Kông. Trong thập niên 1970 - 1980, Macau chưa phải trung tâm giải trí hay cờ bạc như hiện nay, mà chủ yếu dựa vào sản xuất dệt may.
Sau này, sự dịch chuyển sản xuất ra khỏi Hồng Kông do chi phí lao động và đất đai tăng cao đã mang lại nhiều lợi ích cho Thâm Quyến hơn bất kỳ thành phố nào khác. Nhờ vị trí sát Hồng Kông, Thâm Quyến trở thành điểm đến lý tưởng cho các nhà máy. Năm 1981, Thâm Quyến thu hút tới 50,6% tổng FDI vào Trung Quốc, trong khi ba SEZ còn lại chỉ chiếm 9,2%. Đến năm 1985, khi chính sách hỗ trợ đầu tư mở rộng toàn quốc, nhóm SEZ vẫn thu hút 26% dòng vốn FDI, trong đó Thâm Quyến dẫn đầu.
THÂM QUYẾN BỨT TỐC
Nhưng có một điểm cần lưu ý là so sánh giữa 4 SEZ ban đầu không hoàn toàn tương đồng. Thâm Quyến và Châu Hải dễ so sánh nhất vì có mục đích chung, nhưng thực tế quy mô SEZ lúc khởi đầu rất khác biệt. Trong giai đoạn đầu, các đặc khu không được thiết kế để “hóa rồng” toàn bộ thành phố. Hạ Môn SEZ giai đoạn 1979 - 1984 chỉ rộng 2,5 km vuông trước khi mở rộng lên 131 km vuông vào năm 1985, đóng vai trò khu kinh doanh xuất khẩu gắn với cảng biển.
Sán Đầu SEZ thậm chí chỉ có 1,6 km vuông trước khi mở rộng năm 1984. Châu Hải cũng rất nhỏ, vào khoảng 6,1 km vuông năm 1980, mở rộng lên 121 km vuông năm 1989. Tất cả đều thua xa Thâm Quyến với diện tích lên tới 330 km vuông ngay từ năm 1980.
Điều này cho thấy các thống kê tăng trưởng đầu những năm 1980 chủ yếu phản ánh sự phát triển của toàn thành phố, không phải SEZ. Dù SEZ nhỏ vẫn có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa, nhưng rõ ràng đặc khu lớn dễ dàng tạo chuyển dịch mạnh mẽ hơn về thể chế, văn hóa và quản trị.
Ban đầu, Thâm Quyến cũng không phải nơi giàu nhất. Khi được chỉ định SEZ, GDP của Sán Đầu đạt 1,1 tỷ nhân dân tệ, Hạ Môn 480 triệu, Thâm Quyến 270 triệu và Châu Hải 260 triệu.
Mọi thứ nhanh chóng thay đổi nhờ chính sách mở cửa tối đa của Thâm Quyến. Thành phố đi đầu với hàng loạt cải cách quản trị bao gồm cơ chế hợp đồng lao động và tiền lương mới, hệ thống đấu thầu mới, chính sách mua nhà cho công nhân, phiên đấu giá quyền phát triển đất đô thị đầu tiên năm 1987, tách bạch cơ quan quản lý và doanh nghiệp nhà nước, thành lập sàn chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc năm 1990, cải cách giá cả, cải cách hệ thống pháp lý và áp dụng phương thức bầu chọn quản lý nhà máy dân chủ hơn.
Tất cả tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Thâm Quyến cũng là thành phố đầu tiên cho phép người có hộ khẩu nông thôn nhập cư, thu hút lực lượng lao động vốn bị hạn chế ở nhiều nơi khác. Đây là yếu tố khiến văn hóa thành phố trở nên năng động hơn.
Trái lại, thành tựu nổi bật của các SEZ khác khiêm tốn hơn. Châu Hải được ghi nhận là nơi ban hành văn bản pháp lý địa phương đầu tiên, còn Sán Đầu có bộ luật đầu tiên về doanh nghiệp tự chủ tài chính. Khi nhắc tới những nơi này, thông tin thường chỉ dừng lại ở những kết quả đơn lẻ.
Mặc dù Châu Hải, Sán Đầu và Hạ Môn không hề thất bại, nhưng so với Thâm Quyến, mức độ thành công của họ không nổi bật. Trong giai đoạn 1980 - 1984, Châu Hải tăng 32%, Hạ Môn 13% và Sán Đầu 9%, đều thấp hơn mức trung bình toàn quốc. Hạ Môn và Châu Hải thường được xếp vào nhóm đô thị hạng hai, còn Sán Đầu thuộc hạng ba, không có gì quá đột phá ngay cả trong phạm vi tỉnh của họ.
Ngay cả khi ba SEZ kia mở rộng vào cuối thập niên 1980 và đầu 1990, Thâm Quyến vẫn tăng trưởng vượt trội. Một lý do được đưa ra là thời điểm đó Trung Quốc bắt đầu cải cách sâu rộng ở nhiều nơi khác. Thành công của Thâm Quyến khiến chính phủ áp dụng mô hình của thành phố này lên gần 300 khu vực mới với tổng diện tích 426.000 km vuông, chiếm gần 20% dân số Trung Quốc vào năm 1988.
Nhìn chung, Thâm Quyến hưởng lợi lớn nhờ là thành phố đầu tiên chào đón đầu tư nước ngoài, kịp tạo đà văn hóa và kinh tế trước các nơi khác. Nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn như Huawei (thành lập 1987) và ZTE (1985) ra đời tại đây. Sự gần gũi với Hồng Kông giúp Huawei có thương vụ đầu tiên là phân phối thiết bị chuyển mạch điện thoại sản xuất tại Hồng Kông, thu hút đội ngũ nghiên cứu và chuyên gia công nghệ, tạo nên môi trường đổi mới mạnh mẽ.
Cũng trong năm 1988, khi các mô hình quản trị của Thâm Quyến được áp dụng trên cả nước, thành phố được nâng lên mức tự chủ tương đương tỉnh, tiếp tục gia tăng không gian thử nghiệm và vượt qua các thành phố cạnh tranh.
ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN
Các nhà nghiên cứu kinh tế của Trung Quốc chỉ ra nhiều yếu tố quyết định thành công của SEZ. Chúng cần gắn với mở cửa kinh tế và tận dụng đổi mới, cần kết hợp cách tiếp cận từ dưới lên mang tính giải quyết vấn đề với sự hỗ trợ từ trên xuống của chính phủ, có khả năng mở rộng công nghiệp bằng cách nuôi dưỡng các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường, hỗ trợ R&D và xây dựng thương hiệu, có thể ươm mầm ý tưởng địa phương thông qua tích hợp học hỏi, đổi mới và sản xuất và có thể quy tụ nguồn lực và chuyên môn từ chính phủ, doanh nghiệp và viện nghiên cứu để tiến lên chuỗi giá trị cao hơn.
Khi Trung Quốc tiếp tục điều chỉnh chiến lược kinh tế, các đặc khu kinh tế (SEZ) ngày càng tập trung vào thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng dựa trên công nghệ. Sự chuyển dịch này thể hiện qua việc nhấn mạnh hơn vào nghiên cứu và phát triển (R&D), hợp tác giữa các ngành, cùng sự hình thành các hệ sinh thái khởi nghiệp ngay trong nội khu.
Nhìn về tương lai, SEZ vẫn sẽ đóng vai trò trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc, nhất là khi nước này nỗ lực nâng cấp chuỗi giá trị trong lĩnh vực sản xuất toàn cầu và khẳng định vị thế dẫn đầu về đổi mới công nghệ.
Điều đáng chú ý ở Thâm Quyến là mức độ thành công đến rất nhanh. Dù ba thập niên tăng trưởng sau đó ấn tượng, nhưng chỉ trong vòng 10 năm kể từ khi thành lập SEZ, thành công của Thâm Quyến đã rõ ràng. Những quyết định được đưa ra ngay từ đầu, khác biệt với ba SEZ còn lại, mang đến bài học quý cho việc hình thành đặc khu, không chỉ với Trung Quốc mà với mọi quốc gia và thành phố muốn xây dựng mô hình phát triển vượt trội. Vì thế, các nền kinh tế mới nổi cần chủ động nắm bắt xu hướng công nghệ mới, tăng tốc đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Việc đầu tư dài hạn vào nghiên cứu - phát triển, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp mạnh và tạo môi trường pháp lý linh hoạt sẽ giúp các quốc gia không chỉ theo kịp mà còn tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là thời điểm để coi công nghệ là động lực tăng trưởng, đặt trọng tâm vào phát triển nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy hợp tác quốc tế, nhằm mở ra cơ hội bứt phá bền vững trong những năm tới.
(còn tiếp)
TGO
Nguồn Thương Gia : https://thuonggiaonline.vn/vi-sao-tham-quyen-la-dac-khu-kinh-te-thanh-cong-nhat-cua-trung-quoc-post565167.html